Đăng ký

Người lái đò Sông Đà: Thứ vàng mười đã qua thử lửa

A. ĐỀ BÀI

Phần I. Đọc hiểu (3 điểm)

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
         Hơn 2 triệu người đã chết vì đói... Cả nhà đói, cả dòng họ đói, cả làng cả xóm cùng đói. Cái đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945 ấy, người trẻ hôm nay sẽ không tưởng tượng nổi. Và bước vào Ất Dậu 2005 này, chúng ta hãy cùng mở lại những trang hồ sơ về trận đói khủng khiếp để đừng bao giờ quên nỗi đau ấy...
         Chúng ta tự hào bởi lịch sử dân tộc hào hùng và kiêu hãnh. Nhưng chúng ta cũng không thể quên những đau thương, mất mát của dân tộc mình. Những người đang sống hạnh phúc hôm nay không hẳn ai cũng nhớ tới nỗi khổ nhục kinh hoàng nhất trong lịch sử dân tộc Việt với hơn 2 triệu đồng bào đã chết trong sự đày đọa đến tận cùng của cải đói. Năm đó, 1945, cũng là năm Ất Dậu, cách đấy tròn một vòng quay 60 năm của vũ trụ.

(GS. Văn Tạo - GS. Furuta Moto, Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng nhân lịch sử) 

Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt của đoạn trích trên.
Câu 2: Hoàn cảnh nạn đói năm 1945 được miêu tả như thế nào?
Câu 3: Chi tiết về cái đói được điệp lại nhiều lần, anh (chị) hãy chỉ ra tác dụng của việc điệp lại chi tiết đó..
Câu 4: Hậu quả nạn đói được nhắc tới trong hai tác phẩm nào anh (chị) được học trong chương trình lớp 12 THPT? Trong khoảng 5-7 dòng, anh (chị) hãy liên hệ tới hai tác phẩm đỏ để trình bày suy nghĩ của mình về hậu quả nạn đói năm 1945..

Phần II. Làm văn (7 điểm)

Câu 1 (2 điểm):

“Ở Nhật, bạn khó có cơ hội bắt taxi để đi một cuốc đường dài. Vì sao? Các bác tài sẽ tự chở bạn thằng đến nhà ga tàu điện ngầm, kèm lời hướng dẫn “Hãy đi tàu điện ngầm cho rẻ”
Quầy thanh toán cũng không đặt ngay cổng ra vào. Người Nhật tự hào khẳng định động từ ăn cắp vặt gần như đã biến mất trong từ điển.

(Trích "Bốn chuyện lạ ở đất nước Nhật Bản " - theo Internet)

Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh chị về phẩm chất được nói đến trong đoạn văn trên.

Câu2 (5 điểm):
Tùy bút “Sông Đà” là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyển đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc, nơi ông đã khám phá ra chất vàng mười của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những người lao động,
Anh/chị hãy làm rõ “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở nhân vật người lái đò trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà" của Nguyễn Tuân.

B. GỢI Ý LÀM BÀI

Phần I. Đọc - hiểu (3 điểm)

Câu 1. Đoạn trích là sự kết hợp giữa phương thức miêu tả và biểu cảm.
Câu 2. Hoàn cảnh của nạn đói được miêu tả một cách kĩ lưỡng trên các mặt số lượng (2 triệu người), mức độ lan rộng (Cả nhà đói, cả dòng họ đói, cả làng cả xóm cùng đói). Chỉ trong vài câu miêu tả mà mức độ cái đói đã được phản ánh một cách rõ ràng và sâu sắc trong tâm trí người đọc.
Câu 3. Chi tiết về cái đói được trở đi trở lại trong đoạn trích. Bên cạnh những chi tiết miêu tả cái đói “Cả nhà đói, cả dòng họ đói, cả làng cả xóm cùng đói” còn là những cảm xúc của tác giả về những nỗi đau, nỗi mất mát của dân tộc ta (với hơn 2 triệu đồng bào đã chết trong sự đày đọa đen tận cùng của cải đội, Năm đó, 1945, cũng là năm Ất Dậu, cách đây tròn một vòng quay 60 năm của vũ trụ).
Tác dụng: Nhấn mạnh cái đói đã xâm chiếm hiện thực nước ta trong một thời gian không thể quên được. Bên cạnh đó, việc nhắc ổi nhắc lại hình ảnh cái đói cũng góp phần liên kết nội dung của đoạn trích nói về nỗi mất mát lớn trong lịch sử dân tộc. Lịch sử dân tộc có một trang không thể nào xóa nhòa được, nó sẽ trở thành điều nhắc nhở những người cỏ cuộc sống hạnh phúc hôm nay nhớ về quá khứ mà biết trân trọng giá trị cuộc sống hiện tại.
Câu 4. Hai tác phẩm trong chương trình có nhắc tới nạn đói 1945 là tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân và tác phẩm “Tuyên ngôn Độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tham khảo những ý sau đây:
-    Hai tác phẩm dù miêu tả nạn đói theo cách nào tác phẩm “Tuyên ngôn Độc lập” chỉ đơn thuần kể lại sự kiện, “Vợ nhặt” thì xây dựng một cách chi tiết hơn thì nạn đói vẫn hiện lên như một thảm họa khủng khiếp để lại hậu quả không thể nào phai nhạt trong tâm trí người Việt Nam.
-    Là thế hệ trẻ, mỗi người trong chúng ta cần ý thức được nỗi mất mát to lớn đó để biết giá trị của sự ấm êm mà chúng ta có được ngày hôm nay.

Phần II. Làm văn (7 điểm)

Câu 1:

a) Yêu cầu về hình thức:
-     Viết đúng 01 đoạn văn, khoảng 200 từ.
-    Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,...
b) Yêu cầu về nội dung:
-     Giải thích:
+ Đoạn trích trên đưa ra hai tình huống:
++ Ở tình huống thứ nhất, các tài xế taxi Nhật Bản không vì những món lợi trước mắt mà lừa dối những vị khách của mình, các tài xế Nhật Bản đã thể hiện lòng tốt, sự chân thành mà quan họng hơn cà là sự trung thực.
++ Ở tình huống thứ hai, các cửa hàng Nhật Bản tỏ ra tuyệt đối tin tưởng các vị khách của mình khi “Quầy thanh toán cũng không đặt ngay cổng ra vào” để giám sát, theo dõi khách hàng
+ Trung thực là luôn tôn trọng sự thật, tôn trọng chân lí, lẽ phải, sống ngay thẳng, thật thà và dũng cảm nhận lỗi khi mắc khuyết điểm.
-     Chứng minh, phân tích ý kiến:
+ Trung thực là một biểu hiện của lòng tự trọng. Những người có lương tâm, trách nhiệm sẽ không cho phép mình lừa dối mình, lừa dối người khác. Cuộc sống luôn có những góc khuất, những mặt lẩn khuất mà không phải ai cũng nhìn nhận ra. Kẻ lừa dối và làm việc không có trách nhiệm sẽ lợi dụng những góc khuất đó để làm ẩu, thậm chí, chuộc lợi cho bản thân.
+ Sống trung thực, ngay thẳng với chính mình và mọi người, con người mới có được sự thanh thản, nhẹ nhõm, mới có thể làm hết trách nhiệm của bản thân. Khi sống trung thực, con người sẽ không cần phải lo lắng về việc có người phát hiện, tìm ra sự thật, cũng không phải mệt mỏi vì tính toán, suy nghĩ những lời nói dối.
+ Người trung thực, ngay thẳng luôn có được lòng tin, sự tín nhiệm của mọi người, được những người xung quanh quý mến, tôn trọng.
-     Bình luận:
+ Câu chuyện về người Nhật chính là minh chứng tiêu biểu nhất cho đức tính trung thực, ngay thẳng. Chính phẩm chất này đã khiến cho người Nhật, dân tộc Nhật
Bản nhận được sự kính trọng, tin tưởng của toàn thể giới, đưa đất nước Nhật Bản phát triển vững bền.
+ Là một công dân trong thời đại mới, mỗi người trẻ phải tự trang bị cho mình rất nhiều kĩ năng và phẩm chất. Nhưng trong đó, quan họng nhất là đức tính trung thực, thật thà. Đức tính trung thực, thật thà ấy xuất phát từ lòng tự trọng, từ việc ý thức được phẩm giá của bàn thân, tôn trọng sự thật vả không vụ lợi cá nhân.

Câu 2 (5 điểm):

1. Mở bài
 Nguyễn Tuân là một nhà văn suốt đời đi săn tìm cái đẹp. Trước cách mạng, ông quan niệm cái đẹp chỉ có trong quá khứ Vang bóng một thời và tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con người xuất chúng của thời trước còn vương sót lại. Còn sau cách mạng, ông không đổi lập quá khứ với hiện tại, đặc biệt là phẩm chất tải hoa có thể tìm thấy ở nhân dân đại chúng. Tùy bút Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc, nơi ông đã khám phá ra chất vàng mười của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ờ tâm hồn của những người lao động. Và hình ảnh ông lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà lả một minh chứng sống động cho sự thay đổi quan niệm nghệ thuật ấy.

2. Thân bài
a)     Khái quát phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: 
-  Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tài hoa, uyên bác bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Cuộc đời sáng tác của ông là đi sân tìm cái đẹp. Cho nên, ưong con mắt của tác giả, mọi đối tượng thiên nhiên và con người đều tồn tại trên phương diện thẩm mỹ, lấy cái đẹp làm tiêu chuẩn.
- Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân chia ra làm hai thời kì  lớn: trước và sau cách mạng.
- Những năm trước cách mạng, Nguyễn Tuân còn đam mê chủ nghĩa lãng mạn, ông chối từ hiện tại, tìm về với vẻ đẹp cội nguồn của vần học sùng cổ, hoàn toàn xa lạ với cuộc cách mạng của chúng ta. Nhưng từ sau năm 1945, một lớp văn nghệ sĩ như Nguyễn Tuân cố sự giác ngộ tư tưởng, họ tìm được đến với Ánh sáng, phố xá của cách mạng. Nguyễn Tuân cũng hồ hởi với công việc này nhưng ông không lấy văn chương làm công cụ tuyên truyền cách mạng mà ông thể hiện tinh thần yêu nước ở phương diện khác. Đó là sự đam mê, khám phá vẻ đẹp của non sông, đất nước. Trong đó có dòng sông Đà, đảo Cô Tô, đảo Bạch Long Vĩ,...
 + Với đòi hỏi của thời cuộc, Nguyễn Tuân cũng lao mình vào thực tại để hòa nhập vào công cuộc xây dựng kinh tế sau chiến tranh, để hàn gắn vết thương mà kháng chiến chống Pháp để lại. Nguyễn Tuân cùng các đồng nghiệp của mình không quản khó khăn gian khổ băng đèo, lội suối đến với miền Tây Bắc để tìm cho ra, cho thật nhiều: “Cái thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sằn trong tâm trí của những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công việc, xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và bền vững’*. (Nguyễn Tuân). Vì vậy, cảm hứng chủ đạo trong tùy bút này là ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi nhân dân, những con người thầm lặng, vô danh mà vĩ đại.
-   “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những người lao động: để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng. Họ là.những con người bình dị, đời thường nhưng có khát khao chinh phục và làm chủ thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên, góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng kinh tê đất nước, vẻ đẹp “qua thử lửa” chính là những khó khăn, gian khổ mà họ đã trải qua trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, vẻ đẹp đó sáng ngời như một thứ “vàng mười” của thiên nhiên Tây Bắc.
b) Khái quát về tác phẩm:
-  “Người lái đò Sông Đà” được in trong tập kí “Sông Đà”, đây là một tác phẩm tùy bút có giá trị rất sâu sắc cả về văn học và xã hội. Tác phẩm này là kết quả của một cuộc hành trình lớn mà Nguyễn Tuân tìm đến Tây Bắc để tìm kiếm “thứ vàng mười của thiên nhiên và thứ vàng mười của con người lao động đã qua thử lửa”. Tác phẩm này còn đặt nền móng cho nhiều dự án mang tính lịch sử - chính trị-xã hội sâu sắc nhưng hơn hết được mệnh danh là một tác phẩm văn chương gần như đạt đến sự hoàn mỹ.
-   Tập kí “Sông Đà” ra đời năm 1960, trong công cuộc xây dựng vùng Tây Bắc sau chiến tranh. Mỗi nhà văn, nhà thơ lại mang đến cảm hứng riêng của mình cho đề tài này. Chế Lan Viên hồ hởi với chuyến tàu lên Tây Bắc, còn Nguyên Khải lại thấy sự đổi thay trong con người. Cũng trong đề tài đỏ, Nguyễn Tuân khám phá và phát hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc như bàn thể của núi rừng. Nó chính là thủ vàng mười mà nhà văn đang tìm kiếm.

Có thể bạn quan tâm: Soạn bài "Người lái đò sông Đà"
c)  Hình tượng người lái đò sông Đà: 
-  Hình ảnh người lái đò trong tác phẩm không được miêu tả chi tiết về hình ảnh và cá tính mà phần lớn được gợi lên thông qua vẻ đẹp của con người lao động trí tuệ và tài hoa. 
- Trong tác phẩm, nhà văn xây dựng hai nhân vật đó là con sông Đà và người lái đò trên dòng sông ấy. Đỏ là một dụng ý nghệ thuật cao tay của bậc tu từ tài hoa. Bức tranh thiên nhiên dữ dội, con quái vật hiểm ác, kẻ thù số 1 kia chỉ là phông nền để tác giả tô vẽ, ngợi ca, tôn vinh sức mạnh kì vĩ của con người. Vì thế, hình tượng người lái đò sông Đà được nhà vãn xây dựng như một dũng tướng tài ba, là một nghệ sĩ lão luyện trong nghề chèo đò vượt thác.
- Vốn dĩ xuất thân từ núi rừng nên ông lái gắn bó chặt chẽ với cuộc sống nơi đây. Õng sinh ra trên bờ sông Đà, dòng sông thác lũ đó là nguồn nuôi sống chữ ông ngay từ khi còn đỏ chỏm. Cho đến cuộc sống sau này, cuộc đời Ông vẫn là những hành trình leo thác, vượt sông, hình như con người và thiên nhiên gắn bó mật thiết cho nên khi đã nghỉ đò mà ông vẫn nhớ về thác lũ và trận địa đá trên sông.
- Trên dòng sông Đà, người lái đò xuôi ngược cả trăm lần. Dòng sông với ông “như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Ông hiểu được quy luật của các dòng nước, đóng đinh vào trí nhớ của mình từng con thác, xoáy nước, luồng lành luồng dữ, cửa sinh, cửa tử; thông minh, gan dạ, hoạt bát, tự tin như một dũng tướng trong trận đồ bát quái, đua người và hàng vượt qua 73 con thác đến đích an toàn. Con người ấy được ví như “thứ vàng mười” nhưng lại là một tay nhà đò nghèo khổ, tay lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng, giọng ồn ào như tiếng thác nước mặt ghềnh sóng, nhỡn giới vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun, khuôn mặt khắc khổ in hằn dấu vết của công việc đầy gian nan, nguy hiểm. Ông là một nhân vật không tên, vì ông là đại diện cho bao nhiêu con người trên đất nước Việt Nam ngày đêm âm thầm, cần mẫn trong lao động, không ngừng phải đối diện với thiên tai địch họa để giành lấy sự sống và bảo vệ quê hương đất nước. Nhờ đó mà hình tượng trở nên lớn lao, kì vĩ.
- Người lái đò là người rất mực trí dũng và bàn lĩnh .Để làm nổi bật phẩm chất này, Nguyễn Tuân đã có dụng ý nghệ thuật sâu xa là để cho người lái đò xuất hiện trên một hoàn cảnh đầy thử thách, khốc liệt. Nguyễn Tuân khẳng định “Ông muôn ghi cái đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đỏ trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà”. Nhà văn đã mô tả một cách chân thật vừa trân trọng, vừa yêu thương, vừa cảm phục nhân vật ông lái đò vô cùng hiên ngang, trí dũng trong cuộc chiến đấu với những con sóng, con thác đầy hung dữ, nguy hiểm. Cuộc vượt thác, thủy chiến dữ dội có nhiều hồi, nhiều đợt, mỗi đợt lại có những thử thách ác liệt khác nhau, dòng sông bày ra những thạch trận hiểm hóc khác nhau: “Đá ờ đây từ ngàn năm vẫn mai phục trong lòng sông...để vồ lấy con thuyền. Đá bày ra thạch trận trên sông với những boongke chìm và pháo đài nổi, phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác”. Kho từ vựng giàu có và vốn kiến thức văn hóa khoa học phong phú, uyên bác như quân sự, võ thuật, thể dục thể thao, điện ảnh...của Nguyễn Tuân được dịp huy động để miêu tả cuộc thủy chiến ác liệt giữa người lái đò và sóng thác sông Đà: “Sóng nước thúc gối vào bụng và hông thuyền... có lúc chúng đội cà thuyền lên... sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất”. Có lúc tưởng như ông lái đò sẽ bị con thủy quái sông Đà vô cùng hung bạo ấy ngấu nghiến nuốt chửng. Trước sức mạnh của kẻ thù số một của con người, ông lái đò vẫn không hề nao núng, trái lại vẫn bình tĩnh chủ động chiến đấu một cách dũng cảm đầy mưu trí như một vị chỉ huy tài trí tuyệt vời, điều khiển con thuyên lần lượt vượt qua các thác ghềnh như “Phá cái trận đồ bát quái của dòng sông hung bạo”... “Dòng nước hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông Đà”. Những người lái đò vẫn "Cười lên thác sông Đà.. .đến cùng như cưỡi hổ”.
- Người lái đò tài hoa nghệ sĩ: Ông lái đò còn là người rất mực tài hoa, có phong thái ung dung, pha chút nghệ sĩ. Sóng, thác sông Đà rất khắc nghiệt, chỉ cần người lái đò một phút thiếu chính xác, khỉnh suất, nhỡ tay, hoa mắt là có thể phải trả giá bằng cả chính sinh mạng của mình. Nhung sóng, thác sông Đà đù cớ hung dữ đến đâu, cũng bị khuất phục trước người lái đò trí dũng đó. Bởi người lái đò là một nghệ sĩ có kĩ nghệ chở đò kỳ diệu. Nghệ thuật ấy được biểu hiện rõ nhất ở khả năng nắm chắc quy luật tất yếu của sông Đà, nhờ thế mà người lái đò ớ tư thế chủ động, tự do, người chiến thắng. Ông lái đò đã nắm chắc mọi quy luật của dòng sông. Lúc thì “ông cưỡi thác nắm lấy bờm sóng mà phóng nhanh qua cửa tử” lúc lại “Ghì cương đè sấn lên mà chặt đôi con thác để mở đường tiến”. Bằng những động tác thuần nhuyễn trong nghề nghiệp của mình, ông lái đò đã lái con thuyền “như một mũi tên tre xuyên qua hơi nước”, xuyên qua biết bao ghềnh thác hiểm nghèo của dòng sông hung bạo này. Nguyễn Tuân gọi người lái đò của mình có “tay lái ra hoa” là như vậy. Người lái đò trở thành một người nghệ sĩ, một người anh hùng chiến thắng thiên nhiên.

- Ông lái đò còn hiện lên với vẻ đẹp của người lao động bình dị: Khác với cảm xúc của tác giả, thì việc vượt sông của ông lão chi là công việc lao động bình thường, ông đã quên ngay khi hành trình kết thúc. Con sông Đà hung dữ như vậy nhưng ông chỉ coi nó như chiếc lá thu. Ông đến với nó như người lắm chứng nhiều tật nhưng đằm thắm như một cố nhân. Ông hiểu nó và lắng nghe âm vang của nó, thủy chung với nó. Quà mỗi lần chinh phục, mọi nguy hiểm lại tan biến: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Hộ lại đốt lửa nướng cơm lam, bàn chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh, như không hề có chuyện gì xảy ra, cho dù ngày nào họ cũng phải vật lộn, đối mặt. Đó là vẻ đẹp bình dị của những con người lao động trên miền thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ.
Tiểu kết: Với cá tính sáng tạo độc đáo, Nguyễn Tuân luôn có những phát hiện mới lạ nơi con người và sự vật. Nhà văn mang đến cho người đọc một cảm nhận thú vị về vẻ đẹp của con người lao động, chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở những nơi chiến trường, nó hiện hình ngay trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân ta phải lao động, vật lộn với miếng cơm, manh áo và cho những điều lớn lao hơn thế. Trí dũng, tài hoa không phải tìm ở đâu xa mà nỏ hiện hữu ngay trong những con người bình thường, giản dị nhưng luôn ánh lên “chất vàng mười” vô cùng quý giá. Cuộc đời ông lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu là một khúc vĩ thanh tuyệt vời của núi rừng Tây Bắc, là ngọn nguồn sáng tạo nghệ thuật chân chính của người nghệ sĩ. Vì lẽ đó, tác phẩm đã trở thành một tuyệt phẩm vinh danh sự tìm tòi và sáng tạo không ngừng trong cuộc đời lao động nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Ông xứng đáng là “ông vua” của thể loại tùy bút - một bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại

Có thể bạn quan tâm: Hình tượng người lái đò sông Đà
d)   Những nét đặc sắc trong nghệ thuật kí của Nguyễn Tuân
- Thiên tùy bút mang đậm cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân. Độc đáo, tài hoa, uyên bác ở cách tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều phương diện thẩm mĩ, văn hóa: dòng sông được miêu tả như một công trình mĩ thuật tuyệt vời của Tạo hóa; người lái đò được khắc họa với tư chất trí dũng, tài hoa, nghệ sĩ.
- Vận dụng ngôn ngữ điêu luyện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc,., .huy động kiến thức của nhiều lĩnh vực: địa lý, lịch sử, võ thuật, thể thao, quân sự để xây dựng hình tượng.
- Sử dụng hình ảnh mới lạ, độc đáo, hấp dẫn.
- Sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, liên tưởng, tưởng tượng làm cho đối tượng miêu tả trở nên sống động và hấp dẫn hơn.
- Tất cả những kết tinh nghệ thuật như trẽn đều nhằm làm nổi bật vẻ đẹp của dòng sông Đà hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đỗi thơ mộng, trữ tình; vẻ đẹp của người lao động trên sông nước rất đỗi bình dị, kỳ vĩ mà lớn lao.
3.    Kết bài
  Qua hình tượng người lái đò, nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào và khâm phục trước những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhà văn gọi là “chất vàng mười" quý giá của Tổ quốc. Sáng tạo nên hình tượng này, Nguyên Tuân đã mang đến một thông điệp: chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa, nó có trong cuộc sống tìm miếng cơm manh áo của nhân dân lao động và những người bình dị có trí dũng tài ba, họ có thể tạo hình tạo mẫu cho nghệ thuật văn chương.

Xem thêm >>> Bút kí: Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Trên đây là bài viết làm rõ về "thứ vàng mười đã qua thử" lửa trong tác phẩm "Người lái đò Sông Đà" của Nguyễn Tuân cùng gợi ý phần đọc hiểu. Hy vọng bài viết sẽ giúp ích nhiều cho bạn, chúc bạn học tập tốt <3

shoppe