Đăng ký

Tổng hợp các khái niệm thường gặp trong nghị luận văn học

Trong quá trình làm bài nghị luận văn học và tham dự các kì thi, các bạn hay gặp một số đề bài có yêu cầu như: Giá trị hiện thực của tác phẩm..., hay Giá trị nhân đạo trong tác phẩm... .hay Tính dân tộc trong tác phẩm...  Vậy nên trong bài viết này, Cunghocvui gửi đến bạn chi tiết nhất về những khái niệm thường gặp đó.

1. Giá trị hiện thực
-      Giá trị hiện thực của tác phẩm văn học là toàn bộ hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác phẩm vãn học, tùy vào ý đồ sáng tạo mà hiện tượng đó có thể đồng nhất với thực tại cuộc sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết hiện thực trong các tác phẩm văn chương đều là hiện thực được hư cấu. Nó có ý nghĩa phản ánh hiện thực của một thời kỳ trên nhiều góc diện khác nhau hơn là các hiện thực cụ thể, nó đảm bảo tính chân thực cao và sắc nét, thể hiện quan niệm và tư tưởng của người viết. “ Khi gặp các yêu cầu nghị luận văn học theo dạng: Anh/ chị hãy trình bày giá trị hiện thực trong tác phẩm... ? cần chú ý:
+ Làm rõ các hiện thực được nhà vãn đưa vào trong tác phẩm. Nói cách khác, tác phẩm đó phản ánh hiện thực gì? Trong giai đoạn nào? Hiện thực đó được thể hiện qua những nét tiêu biểu nào? Ý nghĩa của việc phản ánh hiện thực ấy là gì?
+ Chú ý đến nhân vật điển hình. Đây là nét đặc trưng của tác phẩm hiện thực. Gắn với mỗi thời kỳ, mỗi xã hội nhất định, bao giờ cũng có mẫu người đại diện cho toàn xã hội. Mau người ấy được nhà văn khái quát và xây dựng lại thành cách hình tượng điển hình trong tác phẩm của mình. Mẫu người ấy sẽ phản ánh quy luật và bản chất của xã hội mà nhân vật sống.
Ví dụ:
-     Tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao): Hiện thực mà nhà văn phản ánh là đời sống bị bần cùng hóa của người nông dân và sự tha hóa của một bộ phận người nông dân ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Nhân vật điển hình: nhân vật Chí Phèo.
-     Tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài): Hiện thực mà nhà văn phản ánh là cuộc sống cùng cực, bị áp bức đày đọa của người lao động nghèo miền núi trước Cách mạng tháng Tám cùng với những nét phong tục rất đặc trưng của họ. Nhân vật điển hình: Mị, A Phủ.
2. Giá trị nhân đạo
-     Là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con người, những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiện sự nâng niu, trân trọng với những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc đời.
-     Để làm rõ giá trị nhân đạo của một tác phẩm, cần phân tích được các khía cạnh sau:
+ Tố cáo xã hội: các nhà văn thường thể hiện quan điểm lên án, phê phán với các tầng lớp thống trị, những kẻ ăn trên ngồi trốc, ỷ mạnh hiếp yếu, chà đạp cuộc sống con người và lâm băng hoại các giá trị đạo lý-  "
+ Ca ngợi: có thể ca ngợi một truyền thống tốt đẹp nào đó hoặc ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của một con người hoặc một lớp người trong xã hội. Đây chính là những vẻ đẹp bị lấp vùi bởi sự thống trị, đàn áp.
+ Thương cảm, bênh vực: xuất phá từ việc phát hiện, khám phá được những nét đẹp ẩn tàng của nhân vật, hoặc nhận thức được hoàn cảnh đã đẩy những người tốt đẹp, lương thiện vào đường cùng, hoặc đẩy họ vào con đường tội lỗi nên các nhà văn bày tỏ niềm thương cảm với họ, tạo ra những tình huống, hoặc xây dựng những nhân vật phụ để làm chỗ dựa, bênh vực, che chở cho họ, giúp họ vượt qua những khó khăn, thách thức và vươn lên khẳng định bản thân, khẳng định niềm tin, ước mơ và khát vọng trong cuộc sống.
+ Chỉ ra con đường, lối thoát cho nhân vật: Đặc điểm này không hoàn toàn có trong tất cả các tác phẩm. Nó phụ thuộc vào nhận thức và khả năng dự đoán trước hiện thực của nhà vãn.
Riêng đối với các tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam được đưa vào chương trình SGK THCS và THPT, sáng tác của nhiều nhà văn hiện thực trước Cách mạng tháng Tám như như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng..., vấn đề tìm ra lối thoát cho các nhân vật thường rơi vào bế tắc. Các nhân vật hầu như đều chịu khuất phục trước hoàn cảnh, hoặc là bị tha hóa, biến chất hoặc là phải dùng cái chết để đánh đổi lấy sự trong sạch. Còn sau Cách mạng, ở những nhà văn giác ngộ và đì theo cách mạng, tác phẩm của họ dù viết về đời sống người lao động trước Cách mạng Tháng Tám thì họ vẫn chỉ ra được con đường đi hướng tới ánh sáng và sự thay đổi của những người lao động. Đặc biệt, các nhà vãn đã nhìn thấy ở những con người lao động đó nguồn sức mạnh to lớn để tham gia cách mạng và giải phóng quê hương, đất nước (như nhân vật Mị, A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” - Tô Hoài, nhân vật Tràng, người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” - Kim Lân)
3. Khuynh hướng sử thi
-      Là một xu hướng thể hiện tác phẩm theo những đặc trưng của thể loại sử thi. Khuynh hướng sử thi thường xuất hiện trong giai đoạn văn học hướng đến phục vụ chiến đấu, là vũ khí chiến đấu.
-      Biểu hiện cụ thể của khuynh hướng sử thi:
+ Đề tài: thường là những vấn đề lớn lao, những sự kiện, biến cố quan trọng có ý nghĩa sống còn với cả dân tộc, ngợi ca những vị anh hùng, chiến sĩ yêu nước,..
+ Nhân vật chính thường tiêu biểu cho lí tưởng, khát vọng, luôn hướng tới ánh sáng, luôn gắn số phận của cá nhân và số phận của cộng đồng, là kết tinh những phẩm chất tốt đẹp của một tập thể, cộng đồng.
+ Lời văn sử thi thường mang vẻ đẹp ngợi ca, trang trọng, ngôn từ mang tính cách điệu, hào hùng.
4. Cảm hứng lãng mạn
Thể hiện khát vọng, ước mơ của nhà văn, tích cực hướng tới ánh sáng, vươn đến những điều tốt đẹp. Trong văn học, cảm hứng lãng mạn thường được thể hiện trong việc khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, tính cách con người, ca ngợi vẻ đẹp anh hùng, cách mạng, tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
5. Tính dân tộc
-      Văn học cũng như mọi loại hình nghệ thuật khác đều là sản phẩm tinh thần của một cá nhân nghệ sĩ. Mà cá nhân người nghệ sĩ đó lại thuộc về một cộng đồng, một dân tộc nhất định. Mỗi tác phẩm văn học ít nhiều đều mang dấu ấn riêng về văn hóa, phong tục tập quán hay tâm lí, tính cách đặc trưng của dân tộc mình. Vậy tính dân tộc có thể được xem như là một thuộc tính xã hội của văn học.Tính dân tộc không bộc lộ một cách rõ ràng, cụ thể thành yếu tố hữu hình mà nó thấm vào trong cảm xúc, trong cách nhìn và phương thức thể hiện của tác phẩm
-      Một tác phẩm có tính dân tộc là tác phẩm xây dựng được những hình tượng mang lí tưởng, đạo đức, cái đẹp mà cả một dân tộc ưa chuộng, thể hiện chân thực đời sống dân tộc, ý thức dân tộc, khát vọng dân tộc trong một hình thức nghệ thuật nhuần nhuyễn, sáng tạo.

Xem thêm >>> Những thao tác cơ bản khi viết đoạn văn nghị luận xã hội

Trên đây là những khái niệm thường gặp khi làm bài nghị luận về một tác phẩm văn học chuẩn nhất, hãy like và share nếu bạn thấy có ích. Chúc bạn học tập tốt <3

shoppe