Đăng ký

Liên hệ phát hiện của nghệ sĩ Phùng đến khát vọng của Vũ Như Tô

A. ĐỀ BÀI

I.      ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Tôi đã bắt đầu biết... nói dối

         Thủa nhỏ, tôi được dạy rằng, phải sống trung thực không dối trá với bản thân mình và với mọi người vì đó là con đường sáng duy nhất của kiếp người. Khi đó, tôi chưa hiểu thế nào là trung thực, thể nào là dối trá mà chỉ biết rằng những hành động nào của tôi làm vừa lòng người lớn, được khen là ngoan ngoãn thì đẩy là những hành động trung thực. Nhưng đến một hôm, tôi đã biết sự thật trong những lời khen ấy. Tôi bắt đầu biết nói dối, những lời nói dối chân thành nhất của đời mình.
         Tôi có người bạn quanh năm lênh đênh trên con tàu nhỏ, đã cũ, đi câu mực, đánh cá trên biển, vài tháng mới trở lại đất liền vài ngày. Một lần, anh đi biển và thời tiết thay đổi đột ngột khiến biển động dữ dội. Nhà anh chỉ còn người mẹ già ốm yếu. Vì quá lo lắng cho con trai, bệnh tim tái phát khiến bà phải vào viện trong tình trạng hôn mê. Khi đó gió biển gào thét dữ dội. Các bác sĩ quyết định phải mổ ngay nhưng họ không thể tiến hành ca mổ trong lúc bà mẹ lâm vào tình trạng hôn mê, suy kiệt tỉnh thần hoàn toàn. Trong những lúc tỉnh táo ngẩn ngủi, bà thều thào hỏi bão đã tan chưa, con trai bà đã về chưa? Khỉ đó có một người làng bên cho biết đã tìm thấy mảnh vỡ của con tàu nhà bà dạt vào bờ biển. Bà hỏi các bác sĩ nhưng không ai trả lời.
          Tôi đứng ở đổ và thật rồ dại khi trung thực kể cho bà nghe rằng cơn bão khủng khiếp lắm, kéo dài vài ngày nữa mới thôi, con tàu đã bị vờ, sóng xô vài mảnh vào bờ, con trai bà (bạn thân của tôi) không biết số phận ra sao. Các bác sĩ không kịp cản tôi. Câu chuyện tôi vừa kể đã đánh gục những sức lực yếu ớt cuối cùng của bà. Bà nấc nhẹ và thiếp đi. Bác sĩ bó tay. Tôi tình cờ phạm phải một tội ghê gớm mà suốt đời tôi không tha thứ cho mình. Sau khi tan bão người bạn tôi sống sót trở về do một chiếc tàu khác cứu. Anh không trách tôi mà chỉ gục bên mộ mẹ khóc nức nở. Sự trung thực ngu ngốc đã vô tình khiến tôi phạm sai lầm khủng khiếp...

(Theo Sổng đẹp, xitrum.net)

Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính trong văn bản.
Câu 2: Em có nhận xét gì về hành động của nhân vật “tôi” khi nói cho bà mẹ đang ốm yếu biết về tin cơn bão và đứa con trai của bà?
Câu 3: Nhân vật “tôi” đã có sự thay đổi như thế nào trong quá trình nhận thức về sự thật?
Câu 4: Anh/chị hiểu như thế nào về câu nói “Một lời nói dối trong tình yêu có thể cứu người và một lời nói thật phũ phàng có thể giết người"?
II.      LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị qua một đoạn văn (khoảng 200 chữ) về ý kiến sau: "Một người chưa biết nói những lời nói dối đẹp đẽ thì người đó không bao giờ biết đến thế giới chân thực ”. (A. France)
Câu 2 (5,0 điểm)
Qua những phát hiện của nghệ sĩ Phùng trên bờ biển trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa ” của nhà văn Nguyễn Minh Châu, anh (chị) hãy liên hệ đến khát vọng của nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích “ Vĩnh biệt Cửu Trùng đài" của Nguyễn Huy Tưởng. Từ đó, nhận xét về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.

B.HƯỚNG DẪN
Câu 1 (0,5 điểm):
Phương thức biểu đạt: Nghị luận, tự sự.
Câu 2 (0,5 điểm):
Nhận xét về hành động của nhân vật “tôi”:
-     Hành động cho thấy sự trung thực, thật thà của nhân vật.
-    Nhân vật “tôi” suy nghĩ chưa thật thấu đáo, chín chắn nên đã gây ra hậu quả đáng tiếc.
Câu 3 (1,0 điểm):

Sự thay đổi trong quá trình nhận thức của nhân vật về sự thật:
-       Ban đầu anh ta nghĩ trung thực là không dối trá với bản thân và mọi người, là con đường sáng duy nhất của kiếp người.
-       Sau đó anh ta nhận ra sự thật không phải được cảm nhận bằng mắt, bằng tri thức mà sự thật phải đồng nghĩa với tình yêu, nó giúp con người có thêm niềm tin, sức mạnh...
Câu 4 (1,0 điểm):
Câu nói “Một lời nói dối trong tình yêu có thể cứu người và một lời nói thật phũ phàng có thể giết người” có nghĩa là:
Câu nói muốn đề cập đến sức mạnh của lời nói.
+ Một lời nói dối nhưng xuất phát từ tình yêu thương, từ mục đích tốt đẹp thì có thể nâng đỡ, tiếp thêm sức mạnh, giúp người khác vượt qua khó khăn.
+ Trái lại, một lời nói thật nhưng vô tâm, phũ phảng, nghiệt ngã có thể khiến con người rơi vào bi quan, tuyệt vọng. Do vậy, điều quan trọng không phải là nói thật hay nói dối mà quan trọng là mục đích, ý nghĩa của lời nói đó như thế nào.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Phần I: Đọc hiểu
Câu 1 (2,0 điểm):
1.      Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn (0,25 điểm)
Có thể trình bày đoạn văn theo nhiều cách: diễn dịch, quy nạp, móc xích, song hành...
2.      Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,25 điểm);
Giá trị của những lời nói dối nhân ái
3.       Triển khai vấn đề nghị luận (1,0 điểm):
Có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng cần làm rõ được suy nghĩ về giá trị của những lời nói dối nhân ái. Có thể theo hướng sau:
-       Giải thích:
+ Nói dối tức là không nói đúng sự thật. Con người thường tôn vinh sự thật, thế nhưng những lời nói dối vẫn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày, cần phân biệt giữa lời nói dối đẹp đẽ với những lời nói dối xấu xa, tội lỗi vì lợi ích của bản thân.
+ Lời nói dối đẹp đẽ là những lời nói dối “ngọt ngào”, vô hại, mang lại cho con người niềm vui, quên đi mệt mỏi... làm cho cuộc sống không còn tẻ nhạt mà trở nên muôn màu, muôn vẻ, đáng yêu hơn.
+ Lời nói dối đẹp đẽ xuất phát từ trái tim nhân hậu, chân thành, mong ước mang lại niềm vui, hạnh phúc cho người khác.
+ Biết đến thế giới chân thực: thế giới không có sự giả dối, biết sống chân thực, biết nghĩ, biết quan tâm đến người khác bằng tấm lòng và tình cảm chân thành.
Ý nghĩa của câu nói: Khẳng định giá trị của những lời nói dối đẹp đẽ. Người biết nói những lời nói dối đẹp đẽ chính là người biết đến thế giới chân thực.
-       Bàn luận: Khẳng định tính đúng đắn của vấn đề:
+ Không phải lúc nào cũng nên nói thật vỉ “sự thật mất lòng” - có những sự thật phũ phàng, con người ta không dễ đối diện với nó, khi đó nếu ta biết nói những lời dối đẹp đẽ sẽ xoa dịu được nỗi đau, bớt đi gánh nặng lo lắng, vực dậy một con người đang tuyệt vọng trở nên lạc quan, tự tin, có thể hàn gắn những mối quan hệ, làm cho gương vỡ lại lành, có thể giải quyết vấn đề theo chiều hướng tích cực... (phân tích dẫn chứng)      I
+ Cần phân biệt lời nói dối đẹp đẽ với những lời xu nịnh, tâng bốc vì vụ lợi cá nhân.
+ Biết sử dụng đúng lúc, đúng hoàn cảnh những lời nói dối đẹp đẽ sẽ không là những lời sáo rỗng mà sẽ mang lại hiệu quả thực |sự.
- Rút ra bài học: cần biết lúc nào nên nói thật, nói dối và dù nói gì cũng cần cân nhắc thấu đáo, xuất phát từ tình yêu thương chân thành, từ trái tim tha thiết với cuộc đời.
4.      Chỉnh tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm):          1
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa Tiếng Việt.
5.      Sáng tạo (0,25 điểm):
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Câu 2 (5,0 điểm)
1.     Đảm bảo cẩu trúc bài vãn nghị luận (0,25 điểm):
Trình bày đầy đủ các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài. Phần Mở bài biết dẫn dắt hợp lí và nếu được vấn đề; phần Thân bài biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề;i phần Kết bài khái quát được vấn đề và thể hiện được nhận thức của cá nhân.
2.      Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm):
Nhận xét, bình giá về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
3.      Triển khai vấn đề nghị luận:
Có thể triển khai theo nhiều cách nhưng về cơ bản, cần đáp ứng những nội dung sau:
a.      Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận
*     Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu — người mở đường tài hoa và \tinh anh của văn học thời kỳ đổi mới. Với một khao khát mãnh liệt đi tìm hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn mỗi người, ông đã có những trang văn độc đáo, giàu tính triết luận về con người và cuộc sống. Chiếc thuyền ngoài xa (1983) rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên (in 1987). Đây là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu mang đậm phong cách tự sự - triết lí của nhà văn. Với ngôn từ dung dị, đời thường truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của người nghệ sĩ đó về nghệ thuật - cuộc đời.
*     Tác phẩm Vĩnh biệt Cửu trùng đài - Nguyễn Huy Tưởng
Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử, ông có rất nhiều đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch, một trong những vở kịch để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là vở kịch Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.
Thông qua nhân vật Vũ Như Tô, nhà văn đã gửi một bức thông điệp về mối quan hệ mật thiết giữa nghệ thuật và cuộc sống đến với người đọc
*    Vấn đề nghị luận
-     Nghệ thuật luôn đi lên từ cái nhìn chân chính. Nói đến nghệ thuật ta không thể không nhắc đến cuộc sống vì văn chương, nghệ thuật luôn là tấm gương lớn rong chơi trên đường phổ để thu nhận vào mình mọi hiến động xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng đó, hai nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Minh Châu tuy viết hai tác phẩm ở hai giai đoạn khác nhau nhưng họ cùng hướng đến quan niệm về nghệ thuật chân chính tiến bộ: nghệ thuật vị cuộc sống.
-     Quan niệm đó được gửi gắm qua hai hình tượng: nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa và Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Hai nhân vật có nhiều nét tương đồng, trùng hợp giữa tài và tâm; giữa khát vọng nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Qua những tình huống đó hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người đều được họ tìm thấy và nâng tầm giá trị.
b.     Triển khai chi tiết vấn đề nghị luận:
*    Phát hiện nghệ thuật và sự trưởng thành trong nhận thức của nghệ sĩ Phùng
-     Nguyễn Minh Châu được xem là một trong những nhà vãn tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, văn của ông giản dị mà sâu sắc, thấm thìa nhiều dư vị về cuộc đời, thấm đẫm nghệ thuật, cái mà ông luôn xem là bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống. Cũng nhờ như thế mà nhân vật Phùng đã ra đời qua chính ngòi bút của ông.
-     Phùng là một nhiếp ảnh gia, theo lời đề nghị của trưởng phòng, ông phải chụp một bức ảnh để đăng cho bộ lịch cuối năm, sau nhiều ngày lao lực tìm kiếm, cuộc sống đã trả ơn cho Phùng bằng cách giúp anh đi hết từ bất ngờ này đến bất ngờ kia
+ Phát hiện lần thứ nhất: Bức tranh thiên nhiên đầy thơ mộng
++ Sau tháng ngày săn ảnh, trước mắt anh là một cảnh tượng trời cho, hình ảnh chiếc thuyền đang từ từ ghé vào bờ trong một buổi sáng sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời mù sương... Quá thăng hoa trong cảm xúc khi khám phá ra được một bức banh mực tàu của một danh họa thời cổ, anh nhanh chóng bấm máy liên thanh và có những bức ảnh ăn ý không dễ gì có được trong một đời làm nghệ thuật.
++ Cảm giác vui sướng trước khoảnh khắc bong ngần của cảm xúc mà trong suốt cả cuộc đời làm nghệ thuật của anh không dễ gì có được...
+ Phát hiện lần thứ hai: Bức tranh hiện thực đời sống đầy nhọc nhằn, cay đắng.
++ Trong con mắt Phùng thì phát hiện thứ hai là xấu xí, tồi tệ. Anh ta không thể ngờ một vùng bờ phá đẹp, bình yên mà anh ta vừa thu vào chiếc máy ảnh Pra- ti-ca nay lại tối sẩm lại trong nạn bạo lực gia đình, không còn màn sương mai, ánh mặt bời mà thay vào đó là bão táp, là giông tố của biển khơi. Nó được đẩy lên đến cao trào khi người đàn ông rút chiếc thắt lưng và đánh tới tấp vào lưng người đàn bà. Lão như một con mãnh thú gầm thét lao vào con mồi, còn người đàn bà thì cam chịu, nhẫn nhục. Mụ “không kêu lên một tiếng, cũng không tìm cách bốn chạy”... Rõ ràng đối với Phùng cảnh này là không thể tưởng tượng được đến “há hốc mồm ra mà nhìn”. Anh ta không hình dung được trong đầu mình cuộc sống lai có những sắc màu, vết cứa như vậy. Anh ta nghĩ rằng, vùng bờ phá này chỉ có sự thanh bình, khoáng đạt nhưng ý nghĩ và nhận thức đó là đơn điệu, sai lầm. Bởi vì bản chất của cuộc sống là bức tranh đai màu sắc, ngoài vẻ đẹp nó còn cả sự tăm tối, xấu xí.        !
+ Chứng kiến buổi làm việc của Đẩu, một người đồng đội cũ nay là chánh án toà án huyện, với người phụ nữ khốn khổ kia, Phùng mới vỡ lẽ ra rằng, người phụ nữ phải cam chịu một bề, không chống trả những trận đòn của chồng và không chịu giải phóng là vì tình yêu vô bờ bến đối với những đứa con. Phùng cay đắng nhận ra rằng, đằng sau cảnh đẹp như mơ kia là bao ngang trái, éo le của đời thường mà anh chưa hiểu hết.
—> Tình huống được tạo nên từ ngòi bút của Nguyễn Minh Châu là sự tương phản giữa nghệ thuật và cuộc sống, nghệ thuật thì ở ngoài xa còn cuộc đời thì lại thật gần, nghệ thuật thì đẹp nhưng cuộc đời sao đầy rẫy bao ngang trái:
++ Nếu như so sánh với phát hiện thứ nhất' thì phát hiện thứ hai này tuy không có giá trị về vật chất nhưng lại trở nên vô giá đối với một con người. Bởi vì, trước khi làm nghệ sĩ, Phùng phải sống như một con người, phải có nhận thức đầy đủ và ứng xử với mọi thứ xung quanh cho nến sự can thiệp của anh ta với nạn bạo lực gia đình là điều đáng khích lệ trong tư duy người nghệ sĩ.
++ Chính sự đối lập trong hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm đến người đọc một vấn đề nhân sinh rất mới mẻ. Đó chính là cuộc sống đầy đau khổ, bạo lực, tàn nhẫn mà con người phải chịu đựng. Chiến tranh đã đi qua nhưng những đau thương mà nó để lại vẫn còn đó, cuộc chiến với đói nghèo, với những bất cập thời hậu chiến vẫn còn đó, vẫn ngang nhiên thách thức với con người. Và đó mới chính là mối lo thực sự ẩn sau những áng mây hồng hồng đầy thơ mộng. Phùng những tưởng anh đã chạm đến cảnh giới cao nhất của nghệ thuật, nhìn thấy vẻ đẹp được coi là “đạo đức” của cuộc đời nhưng Nguyễn Minh Châu đã làm trọn vẹn thiên mệnh của người nghệ sĩ đã khai sáng cho Phùng và cho cả chúng ta nữa về đời sống nhân sinh. Chiến tranh kết thúc không chỉ có nụ cười hoa nở mà còn có cả những dòng nước mắt (gia đình hàng chài chính là nạn nhân của thời hậu chiến - nền kinh tế lạc hậu, thất học). Hiện thực cuộc sống còn nhiều bất hạnh, mà con người phải đối mặt. Viết tác phẩm năm 1987, Nguyễn Minh Châu đã anh dũng dám nói đến phần hiện thực gai góc, sẫm màu của xã hội.                                                 

-     Những nhận thức tiến bộ, tích cực của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng giúp anh tạo được sức sống lâu bền cho tác phẩm nghệ thuật: Trưởng phòng rất hài lòng về tấm ảnh. Mãi về sau, nó vẫn được treo ở nhiều nơi, nhất và những gia đình sành nghệ thuật. Nhưng mỗi khi nhìn kỹ bức ảnh, cảm! xúc của anh luôn lẫn lộn trào dâng. Anh luôn luôn nhìn thấy hình ảnh một người đàn bà lam lũ với tấm lưng áo bạc phếch, nửa thân người ướt sũng đi ra từ bức ảnh đó. Chất sống của hiện thực đã giúp tác phẩm nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng bất tử trước thời gian.

Có thể bạn quan tâm: Hình ảnh chiếc thuyền trong "Chiếc thuyền ngoài xa"
* Khát vọng nghệ thuật và bi kịch không lối thoát của nhân vật Vũ Như Tô
-     Vũ Như Tô được biết đến qua tác phẩm của ông là một kiến trúc sư thiên tài một nghệ sĩ có nhân cách và có khát vọng nghệ thuật cao cả, lớn lao. Ông luôn khao khát xây dựng được những công trình vĩ đại|trở thành niềm tự hào cho con cháu muôn đời sau. Bắt tay vào xây dựng Cửu Trùng Đài “ một công trình nghệ thuật thế kỷ dưới sự chỉ đạo của hôn quân Lê Tương Dực ông đã gặp phải sự cản trở rất lớn của quần chúng nhân dân.. .và dẫn đến bi kịch Vũ Như Tô.
+ Cửu trùng đài ~ một công trình nghệ thuật thế kỷ, một khát vọng nghệ thuật cao đẹp: "đem hết tài ra xây cho nòi giống một toà đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hoá công". Xây Cửu Trùng Đài với Vũ Như Tô vừa là để bộc lộ trọn vẹn cái tài trời phú, vừa để thực hiện giấc mộng lớn - giấc mộng sáng tạo một công trình nghệ thuật kì vĩ, mĩ lệ, cao cả, huy hoàng, một "cảnh Bồng Lai" giữa cõi trần lao lực, góp phần điểm tô cho đất nước. Cửu Trùng Đài chính là tâm huyết, là linh hồn của Vũ Như Tô: "Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi để cả đây..."
+ Cửu trùng đài - một hiểm họa khôn lường: một công trình nghệ thuật thế kỷ dưới sự chỉ đạo của hôn quân Lê Tương Dực lại trở thành một thảm họa khôn lường đối với quần chúng nhân dân.
++ Cửu Trùng Đài trong mục đích của Lê Tương Dực chính là hiện thân của cuộc sống xa hoa đầy lạc thú. Công trình nghệ thuật theo khao khát của Vũ Như Tô lại chỉ là nơi vui đùa của những cung nữ để mua vui cho vị hôn quân, bạo chúa Lê Tương Dực; nó sẽ tiêu tốn tiền của công khố, bòn rút mồ hôi xương máu của nhân dân. .
++ Cửu Trùng Đài trong cuộc sống của nhân dân là một thảm họa. Giữa lúc cuộc sống của nhân dân vô cùng lầm than, khổ cực ("mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng") vì vậy Cửu Trùng Đài càng xây cao bao nhiêu thì mồ hôi, nước mắt và cả máu xương của nhân dân ngày càng tăng lên bấy nhiêu. Tình cảnh khốn cùng ấy tất sinh biến loạn: khi quân phản nghịch nổi lên, thợ xây Cửu Trùng Đài quá nửa theo về quân phản nghịch. Vũ Như Tô là đối tượng đầu tiên trong kế hoạch báo thù của quần chúng lao khổ.
- Cửu trùng đài và bi kịch Vũ Như Tô:
+ Bi kịch bị hiểu lầm và kết tội: Vi mượn tay Lê Tương Dực để thực hiện khát vọng nghệ thuật của mình nên Vũ Như Tô bị đánh đồng với kẻ xa hoa tàn ác, với tên hôn quân bạo chúa, bị coi là kẻ gây tội ác: "ai ai cũng cho ông là thủ phạm. Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông, man di oán giận là vì ông, thần nhân trách móc là vỉ ông". Trong hoàn cảnh ấy, cả Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài đều trở thành mục tiêu của sự oán giận, trở thành đối tượng để nhân dân và quân phiến loạn tàn phá, huỷ hoại, giết hại. Chỉ có Đan Thiềm là người duy nhất hiểu được khát vọng và quý trọng tài năng của ông nhưng Đan Thiềm cũng hoàn toàn bất lực, không thể khuyên nhủ, cũng không thể bảo vệ được Vũ Như Tô.
+ Bi kịch bị vỡ mộng: Cho đến phút cuối cùng, Vũ Như Tô vẫn không thể hiểu và không thể tin rằng việc mình làm là trái với quyền lợi của nhân dân. Ông vẫn một mực khẳng định rằng mình không có tội và không thể hiểu vì sao dân chúng lại nổi lên phá cửu Trùng Đài, không hiểu vì sao xây dựng Cửu Trùng Đài lại là việc làm hại nước, hại dân. Điều bi thương nhất của Vũ Như Tô là sự lạc lõng của ông giữa những kẻ nông nổi và tàn ác, là sự cô đơn đến đáng thương trước lòng hận thù của nhân dân. Khi Cửu Trùng Đài bị đốt cháy cũng là khi Vũ Như Tô vỡ mộng, bừng tỉnh, đau đớn đến tuyệt vọng: "Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!".
—> Cửu Trùng Đài là một công trình kiến trúc tuyệt tác. Được xây bằng tài hoa tuyệt đỉnh của Vũ Như Tô - được xây dựng bằng tâm huyết của Vũ Như Tô: với ông thì Cửu Trùng Đài là phần tâm hồn, là sinh mệnh. Đặt trong bối cảnh lúc đó, Cửu Trùng Đài còn là hiện thân cho cái đẹp xa hoa, đi ngược lại với lợi ích của người lao động. Vì vậy với nhân dân: Cửu Trùng Đài là món nợ mồ hôi, xương máu cần phải trả.

—> Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra những vấn đề sâu sắc và có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lý tưởng nghệ thuật cao siêu thuần túy của muôn đời với lọi! ích thiết thực và trực tiếp của nhân dân.            

Có thể bạn quan tâm: Phân tích tấn bi kịch của Vũ Như Tô  
* Bình luận                                 
-       Cả hai tác phẩm này đều xây dựng lên một nhân vật hết lòng đam mê nghệ thuật nhưng chỉ vì chưa thấy rõ sự đối lập mà dẫn đến những kết cục đáng buồn.
+ Nghệ sĩ Phùng đã thấy được mặt trái của sự việc và đã kịp thời sửa sai. Bằng hành động tự ý thức, Phùng đã nhận ra cái chưa đến được của mình để rồi đấu tranh tự hoàn thiện. Đây cũng chính là khát vọng kết nối Chân - Thiện - Mĩ mà suốt đời nhà văn Nguyễn Minh Châu luôn khao khát và tìm kiếm.
+ Nhà kiến trúc thiên tài Vũ Như Tô do quá bang quan, mù quáng trong khát vọng nghệ thuật cao siêu của bản thân mà xa rời hiện thực đã phải lấy cả cái giá của nghệ thuật để đổi bằng chính mạng sống của mình.
-       Hai tác phẩm được viết vào hai bối cảnh xã hội khác nhau, văn hóa mà đối tượng tồn tại khác nhau và phong cách của hai nhà văn cũng hoàn toàn khác nhau, nhưng họ đều có một điểm chung đã lật ra lá bài của nghệ thuật:
+ Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, phục vụ cuộc sống, nếu nghệ thuật xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng thì chi đem lại bi kịch thảm khốc như của Vũ Như Tô hay cái nhìn phiến diện về cuộc sống của nghệ sĩ Phùng. Tuy rằng nghệ thuật là cái đẹp của cuộc sống nhưng không phải lúc nào nó cũng đẹp. Đằng sau của tấm huy chương rạng rỡ luôn gồ ghề và nhiều khuyết điểm.
+ Ngoài ra, nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì cuộc sống, phục vụ cho cuộc sống, nghệ thuật đích thực phải gắn với quyền lợi của con người. Nghệ thuật xa rời cuộc sống chỉ là nghệ thuật suông và khi nghệ thuật không vi đời sổng thì chính đời sống sẽ hủy hoại nó.
-       Trước yêu cầu khắt khe trên, đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết tìm tòi, khám phá cuộc sống, hiểu nó trên nhiều phương diện. Nghệ sĩ chân chính cũng giống như nghệ thuật chân chính phải là thứ nghệ thuật vị nhân sinh không chỉ bó hẹp nghệ thuật vị nghệ thuật.
4.      Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm):
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa Tiếng Việt.
5.      Sáng tạo (0,5 điểm):
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Xem thêm >>> Cảm nhận, phân tích về nhân vật Phùng

Chúc các bạn học tập tốt <3