Nghị luận văn học: So sánh Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ chi tiết
Nghị luận văn học: So sánh Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ
Thiên nhiên là đề tài muôn thuở, được áp dụng nhiều trong thi ca. Các nhà thơ đến với thiên nhiên, cảm thụ thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm và tinh tế. Phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) cũng vậy, nó đưa tình cảm mênh mang trong“Tràng giang” của Huy Cận đến với nỗi niềm hẫng hụt, chơi vơi trong“Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử. Bài văn so sánh Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ dưới đây có thể sẽ giúp bạn học tốt hơn:
So sánh Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ
Mở bài so sánh Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ:
Nhận xét về Thơ Mới, trong tuyển tập Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn neo neo theo hồn ta”. Nỗi buồn, cái tôi đó gặp nhau bởi những tâm hồn đồng điệu. Đặc biệt là những nhà thơ lấy thiên nhiên làm chủ đạo. Phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) cũng vậy, nó đưa tình cảm mênh mang trong “Tràng giang” của Huy Cận đến với nỗi niềm hẫng hụt, chơi vơi trong “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
Xem thêm:
Thân bài so sánh Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ:
Vài nét về thi nhân và tác phẩm
Được biết đến là những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới (1939 – 1945), Hàn Mặc Tử và Huy Cận đã có một vị trí khá tốt trong thi đàn văn học Việt Nam. Hàn Mặc Tử với cuộc đời bi thương, hồn thơ phong phú, kì lạ và có cái “điên” của riêng mình. Ông luôn bộc lộ một tình yêu đau đớn hướng về trần thế. “Đây thôn Vĩ Dạ” là tác phẩm xuất sắc thể hiện tấm lòng tha thiết với cuộc sống của thi nhân. Còn Huy Cận – hồn thơ cổ điển, giàu suy tưởng và triết lí, nổi bật về cảm hứng thiên nhiên. “Tràng Giang” là một bài thơ xuất sắc thể hiện nỗi buồn sầu trước tạo vật mênh mông, hoang vắng, u buồn và luôn mang một tình yêu thầm kín đáo với quê hương, đất nước.
Về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là bức thư của Hàn Mặc Tử gửi một cô gái mang tên Kim Cúc, là tiếng lòng, là lời mời, là nỗi nhớ nhung của anh chàng thi sĩ. Bài thơ được ra đời trong thời gian Hàn Mạc Tử đang bệnh nặng, nên nỗi buồn dường như còn phảng phất trong từng câu, từng chữ. Mở đầu bài thơ dường như là lời chào mời, trách móc nhẹ nhàng thông qua câu hỏi tu từ đa sắc thái và đa nghĩa.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
“Sao anh không về chơi”, chữ “về chơi” gợi lên cảm giác gần gũi, gắn bó, thân thiết và có sự trách yêu chàng trai của mình. Thôn Vĩ nằm cạnh bờ sông Hương là địa danh đẹp của xứ Huế mộng mơ với khung cảnh “sắc nước nghiêng trời”. Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của thôn Vĩ dần dần hiện ra dưới ngòi bút tinh tế của người thi sĩ. Điệp từ “nắng” hiện lên khiến ta cảm thấy ánh nắng tinh khôi, trong trẻo của buổi sáng mai tinh khiết, nhẹ nhàng làm cho không gian ở vùng quê trở nên lung linh, yên bình hơn. Không gian dường như cao và xanh hơn nhờ anh nắng ban mai. “Vườn ai” như ám chỉ một khu vườn nhà “ai” đó mà chỉ có “ai” mới biết. Thật tinh tế, kín đáo mà sâu sắc. Hàn Mặc Tử đã dùng biện pháp so sánh để miêu tả màu xanh - “xanh như ngọc”. Một bể ngọc xanh tươi, trong trẻo, mát lành và căng tràn sức sống. Giữa khung cảnh thiên nhiên nên thơ và trữ tình đó bỗng có thấp thoáng nơi đâu bóng dáng con người. Có một sự bí ẩn nào đó che đi sau lá trúc… Trúc là loại cây thường biểu tượng cho người quân tử, còn gương mặt chữ điền là gương mặt phúc hậu, tròn đầy. Có lẽ có một vị khách bí ẩn nào đó đã ghé về thôn Vĩ nhưng “ai” không hay biết. Đang một màu xanh mát bỗng nhiên mọi thứ trở nên chùn lại…
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Xem thêm:
Gió và mây thường sẽ quyện vào nhau, nhưng ở đây, lại là “gió theo lối gió, mây đường mây”. Dường như có một sự chia lìa đến não nề và đau lòng. Hình ảnh “hoa bắp lay” nhẹ nhàng và rơi rụng xuống “dòng nước buồn” khiến cho người đọc có cảm giác có cái gì đó đang vỡ tan ra. Cảnh vật dường như mang trong mình một linh hồn của con người, nó có những nỗi buồn thật đẹp. Hay bởi lẽ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ? (Nguyễn Du). Nỗi buồn này mang dư vị rất riêng, rất là “buồn thiu”, buồn đến não nề, tê tái. Như vậy, thi nhân đã mượn hình ảnh thiên nhiên để nói đến nỗi lòng của mình hiện tại ư?
Tiếp theo, thuyền và trăng luôn là cảm hứng của thơ ca. Hàn Mạc Tử đã khéo léo mượn hình ảnh thuyền và trăng để nói lên nỗi lòng của chính mình. Đến đây, người đọc dường như cảm nhận được một điều gì đó mơ hồ, kì ảo. Không phải là một con sông bình thường mà là dòng “sông trăng” rất nên thơ, kì ảo và huyền diệu. Có lẽ đây là một đêm trăng đẹp, một đêm trăng tròn đầy và viên mãn nhất. Câu hỏi tu từ vang lên ở cuối khổ thơ nhưng không ai trả lời. Một từ “kịp” khiến cho câu thơ trở nên hối hả và gấp gáp hơn bao giờ hết. “Kịp” trở về để làm gì? Là kịp yêu kịp thương hay là kịp gặp gỡ?
Có lẽ vì nỗi nhớ quá lớn, quá đầy nên hình ảnh “khách đường xa” đã lạc bước vào giấc mơ của người thi sĩ “Mơ khách đường xa khách đường xa”. Đúng vậy, nó vừa gần nhưng cũng lại vừa thật xa, thật không thể chạm đến được như câu “gần ngay trước mắt, xa tận chân trời”. Đó cũng chính là sự ngóng trông, đợi chờ mòn mỏi của thi nhân cho mối tình của mình. Khổ thơ cuối với gam màu trắng chủ đạo lại càng tăng thêm tính mơ hồ, kì ảo của bài thơ. Hàn Mặc Tử băn khoăn không biết mối tình của mình và cô gái xứ Huế sẽ đi đến đâu, liệu rằng tình người ta có còn đậm đà “Ai biết tình ai có đậm đà” như lời người hứa hay không?
Nhìn chung, “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ tao nhã, xinh xắn, lần theo một mối tình đơn phương và thuần khiết, ta cảm thấy được một thế giới tâm hồn tha thiết yêu người, yêu cảnh, yêu đời. Dù có gặp bi kịch nhưng vẫn không thôi hi vọng.
“Thơ đi từ cái hiện thực đến cái ảo ảnh, từ cái ảo ảnh đến cái huyền diệu, từ cái huyền diệu đến cái chiêm bao. Bao trùm cả bài thơ là một thế giới mơ.” Có lẽ quan niệm đó được thể hiện rõ trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.
Về bài thơ Tràng Giang
So sánh đây thôn vĩ dạ và trang giang
Tràng Giang là bài thơ được sáng tác vào năm 1939, in lần đầu tiên trên báo "Ngày nay" sau đó in trong tập "Lửa thiêng" - tập thơ đầu tay của Huy Cận. Ngay khi đọc tên bài thơ, ta có thể hình dung được tâm tư và tình cảm mà tác giả gửi gắm trong bài. Bài thơ với tựa đề hiện ra một con sông dài, mênh mông, bát ngát. Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh sông dài còn là những mảnh đời bấp bênh, trôi nổi, u sầu. Câu đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" tiếp tục khẳng định nỗi niềm u uất, không biết tỏ cùng ai của nhân vật trữ tình trước không gian bao la của dòng sông.
Khổ đầu tiên đến với người đọc bằng hình ảnh con sông buồn, chất chứa những nỗi niềm khó tả:
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng."
Vừa mới đọc khổ đầu tiên, người đọc thấy được không khí u sầu, buồn bã thông qua các từ "buồn", "sầu", "lạc cành khô". Nếu như câu thứ nhất gợi lên những vòng sóng đang loang ra và lan xa, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ hai lại vẽ ra những luồng nước chảy song song, rong đuổi về phía cuối trời. Nhưng chỉ cần một gợn sóng ấy thì Tràng giang đã "buồn điệp điệp". Từ láy hoàn toàn "điệp điệp" như diễn tả nỗi buồn chồng chất lên nhau, hết lớp này đến lớp khác. Hình ảnh con thuyền "xuôi mái nước song song" lại gợi về cảm giác đơn độc trên dòng nước mênh mông vô tận.
Hai câu thơ kết hợp lại làm cho không gian vừa mở ra theo bề rộng, vừa vươn ra theo chiều dài. Trong câu thơ thứ ba, "thuyền" và "nước" vốn dĩ là hai hình ảnh gắn bó, khăng khít với nhau… Thế nhưng dưới con mắt của nhân vật trữ tình thì lúc này là hai hình ảnh ấy không còn song hành với nhau nữa. Với nghệ "một" - "mấy" như nhấn mạnh hơn sự cô độc của củi trên dòng sông. Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu tiên tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên buồn và ảm đạm. Nét bút kết hợp giữa cổ điển và hiện đại giúp người ta đọc rõ hơn về tâm trạng của kẻ thi sĩ. Khổ thơ thứ hai vẽ nên lại là khung cảnh buồn nhưng mang nét đìu hiu và thiếu sức sống:
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
Chỉ cần qua vài nét chấm phá của nhà thơ đã hiện lên bức tranh quê ảm đạm, thiếu sức sống. Với cách dùng từ ngữ đặc sắc của Huy Cận, ông đã gợi lên một khoảng không vũ trụ sâu thăm thẳm, ở đó cũng là lúc nỗi buồn, nỗi cô đơn của nhà thơ dâng lên cao, trở nên vô cùng vô tận. Một góc nhìn đầy thú vị và mới mẻ. Toàn cảnh khổ hai là một gam màu cô đơn, vắng vẻ, sầu muội; đối lập với hình ảnh cảnh vật thưa thớt là không gian mênh mông, nhấn mạnh hơn nỗi u sầu vạn cổ:
"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."
So sánh khổ 2 đây thôn vĩ dạ và khổ 4 tràng giang
Khổ thơ cuối là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thơ ca truyền thống và thơ ca hiện đại: là sự kết hợp những nét cổ điển trong thơ Đường với cái tôi cá nhân xuất hiện trong phong trào thơ mới. Với việc sử dụng nhuần nhuyễn những từ láy và những câu đảo ngữ, Huy Cận đã thành công trong việc miêu tả cảm xúc vũ trụ. Điều này thể hiện qua vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, sự thơ mộng nhưng không quên thấm đượm nỗi buồn tâm trạng của người thi sĩ. Đó chính là “nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước” (Huy Cận). Nỗi buồn đó được khơi nguồn từ con tim ra ngoại cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim, lặng lẽ mà sâu nặng, yên tĩnh mà mãnh liệt vô cùng:
“Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu”
(Ê chề - Huy Cận)
Đặc sắc nghệ thuật trong "Tràng giang" trước hết phải nói tới sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố Cổ điển (thơ Đường thi) và yếu tố thơ mới. Trong bài thơ tác giả sử dụng nhiều từ Hán Việt như tràng giang, bến cô liêu,...cùng với đó là đề tài thiên nhiên cổ kính, hoang sơ, cái tôi bé nhỏ trước thiên nhiên mênh mông mang đậm yếu tố Đường thi. Yếu tố thơ mới được thể hiện thông qua cái tôi giàu cảm xúc, hình ảnh sinh động giàu sức gợi. Bên cạnh đó việc sử dụng các từ láy, phép đối cũng góp phần làm rõ hơn sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ rộng lớn.
Với "Tràng giang", Huy Cận không chỉ mang đến bức tranh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông mà qua đó tác giả còn nhấn mạnh sự cô đơn của "cái tôi" trước ngân hà rộng lớn. Sự đối lập này phần nào nói lên tình cảnh lẻ loi, sự trôi nổi của những kiếp người. Đồng thời tác giả bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương, tình cảm thiết tha với đất nước của mình.
Xem thêm:
Phân tích khố 2 đây thôn Vĩ Dạ
So sánh Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ
Thông qua hai bài thơ ta thấy được sự đồng điệu, gặp gỡ của hai thi nhân đó là miêu tả bức tranh thiên nhiên trời - nước, cảnh vật. Qua đó bộc lộ nỗi buồn và tình yêu của mình đối với tạo vật thiên nhiên và cuộc sống. Hơn thế nữa, cả hai đều sử dụng rất nhuần nhuyễn thể thơ thất ngôn điêu luyện, kết hợp tả cảnh ngụ tình và miêu tả trực tiếp.
Tuy nhiên chỉ gặp nhau ở một tư tưởng nhất định, mỗi bài thơ của mỗi tác giả đều có một nét hay, nét đẹp riêng. “Đây thôn Vĩ Dạ” là viết về nỗi buồn của một người khát khao được sống, được yêu và thiết tha gắn bó với cõi đời, cõi người nhưng lại cảm thấy mong manh và vô vọng; bài thơ được viết từ những thi liệu trực quan từ trải nghiệm của chính mình. Còn “Tràng Giang” là nỗi buồn rợn ngợp trước tạo vật mênh mông, hoang vắng cùng mặc cảm của thi nhân, của nhân vật trữ tình khi đứng trên quê hương; bài thơ thành công bởi những thi liệu cổ điển từ trong thơ Đường.
Xem thêm:
Kết bài so sánh Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ:
Như vậy, thiên nhiên chính là tình yêu, là nguồn cảm hứng bất tận đối với người thi nhân. So sánh Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ ta có thể thấy được điều đó qua từng câu từng chữ trong bài.