Giải thích các câu tục ngữ: Tay làm hàm nhai,...", đồng thời lại có câu: Giàu đâu những kẻ ..."
Đề bài: Khuyên mọi người chăm chỉ lao động, tục ngữ có câu:
Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ
đồng thời lại có câu:
Giàu đâu những kẻ ngủ trưa
Sang đâu những kẻ say sưa tối ngày.
Em hãy giải thích và chứng minh.
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
– Trong tục ngữ nhân dân ta đã nêu lên nhiều kinh nghiệm qụý báu về lao động, về thái độ đối với lao động, tục ngữ khuyên nhủ chúng ta:
Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trề
Và phê phán: Giàu đâu nghững kẻ ngủ trưa
Sang đâu những kẻ say sưa tối ngày.
– Chuyển ý
II. Thân bài
1. Câu tục ngữ khuyên nhu mọi người phải chăm chỉ làm việc.
a. Giải thích ý nghĩa câu tục ngữ Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trề.
– Câu tục ngữ có hai vế, mỗi vế nêu lên một thái độ đối với lao động.
– Tay là cơ quan quan trọng nhất của con người làm việc.
Hình ảnh bàn tay ở đây tượng trưng cho con người. Tay làm là hình ảnh con người chăm chỉ, tay quai là hình ảnh con người lười biếng, không chịu làm việc
– Hàm và miệng là cơ quan giúp cho con người ăn uống. Hình ảnh hàm và miệng ở đây tượng trưng cho cuộc sống của cơn người. Người chăm chỉ mới có cái để ăn (liên hệ với câu tục ngữ: Có làm thì mới có ăn. Không dưng ai dễ đem phần đến cho), nói rộng ra người có chăm làm cuộc sống mới được đảm bảo, kẻ lười biếng thì chẳng có gì đề ăn. Nói rộng ra kẻ lười biếng cuộc sống sẽ khổ sở, thiếu thôn.
– Câu tục ngữ khuyên mọi người cần chăm chỉ lao động, chê trách thái độ lười biếng.
b. Nêu dẫn chứng chứng minh người lao động chăm chỉ sẽ có một cuộc sống no đủ tốt đẹp. (Lây các dẫn chứng trong cuộc sống thực tế ở xung quanh, có thể nêu lên cụ thể).
– Người nông dân chăm chỉ cày sâu cuốc bẫm, mùa đến sẽ, thu hoạch tốt.
– Người công nhân chăm chỉ, có tay nghề giỏi sẽ có năng suất cao do đó lương cao, được thưởng nhiều. Cuộc sống vì thế sẽ sung túc.
– Người thợ thủ công chăm chỉ làm ra được nhiều sản phẩm, thu nhập cao. Vì thế gia đình có cuộc sổng đầy đủ.
2. Các câu tục ngữ phê phán thái độ lười biếng trong lao động.
a. Giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ
– Vế thứ hai của câu tục ngữ đều nêu lên một thực tế trái ngược với vế thứ nhất: Kẻ lười biếng không có miếng ăn.
– Câu tục ngữ thứ hai phê phán thói lười biếng cũng bằng cách nêu ra hậu quả của thái độ đó. Ngủ trưa, ngủ dậy muộn để trốn tránh công việc (không phải ngủ vào buổi trưa), say sưa rượu chè be bét thì không mong gì giàu sang.
– Kết hợp cả hai câu tục ngữ chúng ta thấy, những kẻ lười biếng thì ngay miếng ăn hàng ngày cũng không có, sự giàu sang càng là một điều viển vông. Bằng sự phê phán đó, các câu tục ngữ trên góp phần khắng định cần thiết phải chăm chỉ lao động.
b. Chứng minh kẻ lười biếng sẽ khổ sở (Lấy dẫn chứng trong thực tể cuộc sống ở xung quanh).
– Kẻ làm ruộng mà lười, sản phẩm sẽ ít, lương thấp lại không được thưởng. Cuộc sống khó khăn.
– Bất cứ kẻ nào, làm nghề gì mà lười cũng chịu hậu quả là thu nhập thấp, đời sống khó khăn.
– Những thanh niên sa vào nghiện ngập rượu chè, hút chích, hêroin vừa hại sức khỏe, vừa suy sụp tài sản, mất nhân tính và đi đến bệnh tật, tử vong (báo Công An Thành phố HCM có đăng rất nhiều bài).
– Thái độ lao động biểu hiện đạo đức của con người chăm chỉ lao động, cần cù làm việc là phẩm chất của người tốt. Lười biếng (ngu muộn, làm muộn, về sớm, chỉ ham rượu chè mà không ham làm việc..) là tính xấu mỗi người cần tránh xa.
– Các câu tục ngữ trên có giá trị khuyên nhủ mọi người có thái độ đúng với lao động.
Bài mẫu:
Mỗi chúng ta đều có thể tìm thấy ở trong kho tàng tục ngữ Việt Nam những kinh nghiệm phong phú về nhiều mặt của cuộc sống. Về thái độ đối với lạo động, tục ngữ khuyên nhủ chúng ta:
Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ.
Đồng thời lại có câu:
Giàu đâu những kẻ ngủ trưa,
Sang đâu những kẻ say sưa tối ngày.
Ở câu tục ngữ thứ nhất, người xưa đã dùng hình ảnh ẩn dụ (so sánh ngầm, lấy một bộ phận nói lên toàn thể) hình ảnh bàn tay tượng trưng cho con người. Tay dùng để lao động, để làm việc. “Tay làm” nói con người chăm chỉ, “tay quai” chỉ con người lười biếng, không chịu làm việc. Hàm và miệng giúp con người ăn uống. Hình ảnh hàm và miệng ở đây tượng trưng cho cuộc sống của con người. “Hàm nhai’ ý nói có ăn, có thu nhập để sống. “Tay quai miệng trễ” ý nói là nếu không chịu lao động, nếu lười biếng thì không có cái ăn, không có thu nhập để sống, cuộc sống sẽ khổ sở, thiếu thốn.
Câu tục ngữ khuyên chúng ta phải chăm chỉ lao động, cần cù chịu khó làm ra của cải vật chất, dùng bàn tay khối óc, không ngại gian khổ, sớm khuya, một nắng hai sương để cho cuộc đời chẳng những có ăn, no đủ mà ngày càng khá giả, tốt đẹp. Câu tục ngữ cũng phê phán thói chây lười, không chịu lao động, làm chăng hay chớ, tùy tiện nên đời sống khổ sở, đói rách, thiếu thốn. Người xưa quan niệm rất đứng đắn về lao động. Biết rằng lao động là vất vả, gian khổ nhưng cũng thật tốt đẹp, cao quý. Họ quan niệm:
Có làm thì mới có ăn,
Không dưng ai dễ đem phần đến cho.
Ở câu tục ngữ thứ hai, người xưa đã thẳng thắn phê phán thói lười biếng. Ngủ trưa (ngủ ngày), ngủ dậy muộn, không biết quý trọng thời gian, ngại khó, trốn tránh công việc, say sưa rượu chè tối ngày sẽ chịu hậu quả chẳng những không mong gì giàu sang, no đủ mà còn phải chịu chật vật, khốn khó do thói lười biếng tạo nên.
Hai câu tục ngữ nêu nên một chân lí giản đơn của đời sống con người: có làm thì mới có ăn, mới mong no đủ, mới có thể giàu có. Ngược lại, thói lười biếng sẽ dẫn đến hậu quả chẳng những miếng ăn, cuộc sống hàng ngày cũng không có, không đủ chứ đừng mong gì cuộc sống giàu sang, no đủ. Ý nghĩ giàu sang của những người lười biếng chỉ là một sự viễn vông. Người xưa khẳng định sự cần thiết phải lao động, mà phải lao động chằm chỉ nữa.
Thực tế muôn đời nay đã chứng minh chân lí đúng đắn đó, khẳng định sự cần thiết của kinh nghiệm đó.
Trên ruộng đồng, người nông dân cuốc bẫm cày sâu, thức dậy từ lúc "‘trời còn tang táng rạng đông, làm ngay cả lúc ban trưa và đến tối mịt mới về, quanh năm đầu tắt mặt tối, một nắng hai sương mới mong có mùa thu hoạch tốt, có đời sống no đủ, khá giả. Bài ca lao động gian khó, bài ca tình yêu là một cặp song song trong giai điệu cuộc sống của họ, là nết đẹp, nét thơ mộng trong cuộc đời của họ. Một ngày lao động vất vả, “mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” đã đem đến cho người nông dân buổi chiều khói bếp thơm nồng, buổi tối cả nhà quây quần quanh mâm cơm vui vẻ và hơn thế một cuộc sống no đủ, dài lâu, nhà ngói cây mít… Họ luôn luôn hiểu rằng:
Công lênh chẳng quan bao lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
Người công nhân phải chăm chỉ bám máy, bám xưởng, có tay nghề giỏi, có năng suất cao thì mới có lương cao, được thưởng nhiều và mới có cuộc sống sung túc. Người thợ thủ công từ chỗ suốt đời gắn bó, tận tụy với nghề, chăm chỉ, cần mẫn, kiên trì, khéo tay nên đã làm ra được nhiều sản phẩm, có thu nhập cao và cuộc sống đầy đủ. Ngược lại nếu người nông dân mà lười biếng lao động, không biết quý trọng thời gian thì sự thất bát mùa màng là chắc chắn. Lúa sẽ xấu, cỏ mọc sẽ nhiều, lúa không đủ phân, đủ nước sẽ cho ít nhánh, năng suất không cao. Đấy là chưa nói đến hậu quá tai hại do sâu bọ phá hoại. Kẻ làm thợ cũng vậy, lười biếng sẽ không thể có nhiều sản phẩm và chắc chắn là lương sẽ ít, cuộc sống sẽ vô cùng khó khăn. Bất cứ ai, bất cứ làm nghề gì, việc gì cũng thế, nếu chây lười thì sẽ chịu hậu quả là cuộc sống khốn khó mà thôi.
Lao động là cần thiết, là vẻ vang, là cao quý bởi nó đem lại đời sống tốt đẹp cho con người. Lao động vì thế là đạo đức, là phẩm chất của bất cứ mọi người trong xã hội, là thước đo tình cảm và năng lực của con người. Thái độ đối với lao động cũng chính là cách nhìn nhận đúng đắn về bản chất của con người. Chỉ có những người chăm chỉ lao động, yêu quý lao động mới có thể có tình cảm chân thành, đúng đắn trong các quan hệ của cuộc sống. Những kẻ lười biếng, ham mê chơi bời, rượu chè là kẻ xấu, cần tránh xa.
Những câu tục ngữ trên qua thời gian càng khẳng định sự đúng đắn của kinh nghiệm sống quý báu và cần thiết mà người xưa đã để lại, khuyên nhủ chúng ta. Ngày nay, khi con người đã tiến rất xa trong con đường giải phong sức lao động, sáng tạo ra nhiều của cải vật chất, sự chăm chỉ lao động, có thái độ đúng đắn với lao động, tránh thói lười biếng lao động vẫn thật là cần thiết, bởi ý nghĩa của nó không chỉ giúp con người theo kịp sự tiến bộ của khoa học, xây dựng cuộc sống mới trên nền tảng kinh tế xã hội còn khó khăn, mà cần thiết hơn là giáo dục đạo đức, phẩm chất của con người trước yêu cầu và thử thách lớn lao hơn của đời sống.