Nhận định và phân tích 2 khổ cuối bài Ánh trăng của Nguyễn Duy
Nhận định và phân tích 2 khổ cuối bài Ánh trăng của Nguyễn Duy
Trong cuộc sống xã hội hiện đại đầy xô bồ và vội vã, đôi khi con người ta bỏ qua điều thực sự quan trọng để rồi đánh mất những người bạn tri kỉ đã từng gắn bó qua bao năm tháng nhọc nhằn, vất vả. Đây cũng là nỗi lòng của nhà thơ Nguyễn Duy khi ông vì sự lấp lánh của ánh đèn điện mà quên đi ánh trăng đã chiếu sáng, lớn lên và trưởng thành cùng ông. Điều này sẽ được tìm hiểu trong phần phân tích 2 khổ cuối bài Ánh trăng.
Phân tích 2 khổ cuối bài Ánh trăng
Mở bài phân tích 2 khổ cuối bài Ánh trăng
Những truyền thống tốt đẹp và lâu đời của dân tộc Việt Nam luôn được các tác giả trong nước giữ gìn và khéo léo bộc bạch ngay ở chính các tác phẩm của mình. Nguyễn Duy cũng là một trong số đó, khi mà tư tưởng ‘ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là nội dung xuyên suốt trong Ánh trăng- một bài thơ được xuất bản trong sách giáo khoa Ngữ văn 9.
Thân bài cảm nhận 2 khổ cuối bài thơ Ánh trăng
Hình tượng chính trong bài đã được ông lấy làm tên bài thơ “Ánh trăng”, thấm đượm ý nghĩa nhân văn và tư tưởng triết luận. Nguyễn Duy gửi gắm vào đó biết bao những suy nghĩ, chiêm nghiệm về lẽ sống thủy chung cao quý trong cuộc đời mỗi con người và tha thiết mong muốn gửi đến chúng ta một thông điệp: “Hãy lắng lại một phút cái chen lấn, bận bịu của cuộc sống để nhìn lại bản thân mình!”
Có lẽ bởi rằng ông luôn đau đáu một điều: Dân tộc ta phải luôn nhớ về cội nguồn, biết tự soi rọi, tự ý thức về những lầm lỗi của mình, để hướng thiện. Nhưng tâm niệm đó không bị truyền tải theo cách gò bó hay cứng nhắc, Nguyễn Duy chỉ đơn giản là dùng giọng điệu tâm tình kể một câu chuyện cho người đọc, câu chuyện cuộc đời của chính tác giả.
Từ những câu thơ đầu tiên cất lên, người đọc được ông nhẹ nhàng đưa về với quá khứ và tuổi thơ tươi đẹp gắn liền với thiên nhiên. Ông được tự nhiên tìm tòi, khám phá và cảm nhận những điều gần gũi nhất nuôi dưỡng mình trưởng thành cho đến ngày chính thức trở thành một người lính.
Xem thêm:
Hình ảnh trăng và người trong bài thơ ánh trăng
Dần dần khi sống ở rừng sâu, ánh trăng trở thành tri kỉ và bầu bạn. Nguyễn Duy có thể nằm ngủ dưới trăng, đứng gác dưới trăng, trăng cùng chia sẻ những gian lao và niềm vui thắng trận của cuộc đời người lính. Rõ ràng tất cả đã khiến ta những tưởng rằng mối quan hệ tình cảm ấy sẽ luôn gắn bó keo sơn, mãi mãi chẳng rời.
Thế nhưng khi mạch câu chuyện trở về hiện tại thì điều “ngỡ không bao giờ quên” lại gần như chẳng còn tồn tại gì trong tâm trí. Với giọng kể trầm ngâm, mang nhiều nét suy tư, Nguyễn Duy đưa ta theo dòng thời gian tới cảnh đời sống con người bắt đầu thay đổi theo sự tấp nập phồn hoa của đô thị. Có lẽ cũng vì vậy mà lòng người cũng đổi theo, vì ánh sáng của đèn điện giờ đã thay cho ánh sáng của ánh trăng.Từng là người bạn tri kỉ, thế nhưng giờ thấy trăng đi qua ngõ cũng chỉ giống như hai người xa lạ lướt qua nhau.
Sự thay đổi này cũng diễn ra trong chính lòng người lính. Giọng thơ thì thầm như nhắc nhở việc anh đã quên mất đi người bạn năm xưa, người đã từng theo anh suốt những năm tháng tuổi thơ, người đã luôn bên cạnh những ngày tháng gian lao trong rừng. Phải chăng anh đã thực sự thay đổi, cần phải tự trách và sám hối?
Anh lính ấy vừa kể cho người đọc cũng tự nói chuyện với chính mình, suy nghĩ về việc bản thân đã thay đổi tình cảm quên đi vẻ đẹp của thiên nhiên, bình dị. Anh có đang chỉ sống cho hiện tại mà quên đi quá khứ? Hưởng thụ yên vui hiện tại mà quên mất đi giá trị của những ngày tháng gian khổ?
Phân tích bài thơ ánh trăng qua hai khổ cuối
Không dừng lại ở đó, một cuộc sống vô cùng chân thật được Nguyễn Du sáng tạo nên, đưa tất cả chìm vào bóng tối. Hệ thống đèn điện nơi đô thị bỗng chợt vụt tắt, không gian phòng đinh tối om. Như bao người khác, phản xạ đầu tiên của người chiến sĩ là vội bật tung cửa sổ tìm kiếm ánh sáng.
Và đột ngột làm sao, anh chợt nhận ra hóa ra vầng trăng vẫn ở đó, tròn đẹp và thủy chung đợi chờ:
"Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng, là bể
hư là sông, là rừng"
Người ngắm trăng và suy ngẫm bâng khuâng “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Mặt người và mặt trăng đối nhau trong tích tắc và cũng được diễn tả chỉ bằng một vần thơ. Gương mặt kia của trăng kia sao mà vừa xa lạ lại vừa thân quen, ẩn chứa nghĩa tình tri kỷ mà bấy lâu nay người lính dửng dưng.
Sau rất nhiều năm dù vẫn luôn ở cạnh nhưng chẳng bao giờ tiếp xúc, cuối cùng hai người bạn đã thực sự gặp lại nhau. Dù vầng trăng kia chẳng trách móc, thế nhưng lại cũng đủ để người lính rưng rưng xúc động, nghẹn ngào. Biết bao những kí ức tươi đẹp chợt ùa về trong tâm trí người lính khiến nước mắt anh trào ra. Anh như nhìn thấy biết bao hình ảnh "như là đồng là bể, như là sông là rừng” quen thuộc vào mến thương nhường nào.
Câu trúc của câu thơ sóng đôi kết hợp với phép tu từ so sánh, từ “là" được nhắc lại bốn lần cho ta thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa. Sự gắn bó chan hòa giữa người lính và thiên nhiên trong quá khứ được ông gợi lên thật sống động. Thật khéo léo làm sao, bởi nói đến đất nước, đến đồng, đến sông, đến bể, … là nhắc đến những gì gắn bó sâu sắc nhất với tuổi thơ và chiến tranh.
Ở khổ thơ đầu ta cũng từng thấy những hình ảnh này xuất hiện một lần. Hóa ra trăng kia xuất hiện với vai trò như một biểu tượng của quá khứ, một quá khứ đầy nghĩa tình đã tạm bị lãng quên nhưng chưa bao giờ biến mất. Nó đánh thức những năm tháng hoa niên ấy cho đến khi cầm súng hành quân đuổi giặc dưới những cánh rừng.
Xem thêm:
Dàn ý đóng vai nhân vật trữ tình trong bài thơ ánh trăng
Đóng vai nhân vật trữ tình trong bài thơ ánh trăng
Những kí ức sống động ấy chỉ cần một tác nhỏ đã trở nên rõ ràng và sâu đậm hơn bao giờ hết. Cả người đọc và tác giả cùng chìm đắm và chiêm nghiệm về ánh trăng tình nghĩa một thời:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình
Dù có chuyện gì xảy ra, ánh trăng kia vẫn luôn tròn vạnh, thủy chung và nhân hậu như thế. Mặc cho con người vô tình vẫn luôn bao dung độ lượng không một lời trách cứ để một ngày kẻ có tội giật mình nhìn thấy khiếm khuyết, vừa tỉnh ngộ và vừa biết ơn.
Thế nhưng dù vậy cũng thực sự rất khó để tả hết được tâm trạng khi ấy của con người bằng lời. Trong hai chữ “giật mình” như còn ẩn chứa cả cảm giác ăn năn và hối lỗi đầy chân thành. Dù không thể cất lên thành lời thế nhưng cũng vì vậy mà thơ Nguyễn Duy lại có chút day dứt vào ám ảnh hơn. Ông cũng bắt đầu đưa vào bài nhân xưng “ta” như muốn để tạ lỗi với ánh trăng.
Người xưa vẫn có câu “Trong cái rủi có cái may”, và có lẽ sự cố mất điện của thành phố đã mang lại cho độc giả và Nguyễn Duy một món quà lớn: Chân tướng sự việc. Dù sự thật ấy có khiến con người cảm nhận niềm ân hận, day dứt những vẫn thật đáng giá bởi nó khiến ta nghiêm khắc nhìn thẳng vào những sai lầm và hiểu được điều gì mới thực sự quý giá, cao đẹp và vĩnh hằng.
Kết bài phân tích bài thơ Ánh trăng hai khổ cuối
Bài thơ là lời tự sự của tác giả, nhưng cũng thật đặc biệt bởi ta cũng có thể thấy câu chuyện của chính mình qua đó. Từ những tâm tình, kỉ niệm sâu kín trong lòng của Nguyễn Duy mà người đọc có cơ hội nhìn nhận lại lối sống ở hiện tại và nhận được những thông điệp về sự đáng giá của quá khứ. Đây cũng chính là điểm hay nhất của bài khi sức mạnh cảm hóa được lòng người.
Nhờ những dòng thơ và kí ức quý báu của Nguyễn Duy, tâm hồn mỗi độc giả như được thanh lọc hoàn toàn khỏi những bộn bề thường ngày, và lay động lại những điều quý báu đã bị thời gian chôn vùi.