Phân tích bài thơ Việt Bắc hay nhất - Ngữ văn 12
Trong chương trình Ngữ văn lớp 12, bài thơ Việt Bắc là một bài thơ quan trọng để ôn thi THPT. Sau đây, Cunghocvui.com xin gửi đến các bạn bài Phân tích bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu đầy đủ nhất. Hy vọng với bài phân tích này, đặc biệt là Phân tích 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc, các bạn học sinh sẽ có thêm một bài văn hay cho riêng mình!
Bài làm
Tố Hữu là nhà thơ chiến sĩ, ông thường viết về những vấn về chính trị của đất nước, của dân tộc nhưng lại không hề khô khan mà rất giản dị, thấm thía, đi vào lòng người. Nổi bật trong các sáng tác của nhà thơ đi đầu trong nền thơ ca Cách Mạng này là bài thơ Việt Bắc. Bài thơ là những tình cảm sâu đậm của những người chiến sĩ với đồng bào, là nỗi lòng lưu luyến khi phải chia ly, trở về với miền xuôi xây dựng xã hội chủ nghĩa của người lính.
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, tháng 7/1954, hiệp định Giơ - ne - vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại , miền Bắc được giải phóng và bắt đầu xây dựng cuộc sống mới. Khi ấy, vào tháng 10/1954, Trung ương Đảng và Chính Phủ rời chiến khu Việt Bắc để trở về miền xuôi, những người chiến sĩ cũng phải tạm biệt người dân nơi đây để trở về thủ đô, trong sự lưu luyến, bịn rịn của người ra đi và kẻ ở lại. Trước hoàn cảnh chia li đầy nghĩa tình ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc, làm tái hiện lên những ân tình thủy chung của các cán bộ, chiến sĩ với những người đồng bào đã cưu mang, đùm bọc họ trong suốt những năm tháng chiến đấu gian khổ, ác liệt.
Mở đầu bài thơ là hoàn cảnh chia ly của chiến sĩ và người dân Việt Bắc:
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn"
Ngay từ khi sử dụng thể thơ lục bát là thể thơ đặc trưng trong dân gian, nhà thơ Tố Hữu đã gợi lên một sự thân thuộc đối với bạn đọc. Cách xưng hô "mình", "ta" giữa những người lính và đồng bào cho thấy sự gắn bó mật thiết, thủy chung. Mình và ta như là vợ và chồng, mà nghĩa tình vợ chồng thì luôn son sắt, khó có thể nào phai mờ được. Cụm từ "mười lăm năm" là khoảng thời gian mà người lính gắn bó với chiến khu. Đó là một quãng thời gian rất dài, hậu phương và tiền tuyến cùng nhau hỗ trợ, tương trợ nhau để đánh bại kẻ thù. Bởi vậy cho nên trước lúc rời xa, chỉ cần nhìn những hình ảnh "núi", "sông" thôi thì cả một bầu trời quá khứ, bầu trời kí ức như đang hiện về trong nỗi lòng của người phải ra đi, phải từ biệt gia đình thứ hai của mình.
Hoàn cảnh chia li ấy được hiện lên với tâm trạng lưu luyến, bịn rịn của cả người ở lại và kẻ ra đi:
"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biêt nói gì hôm nay"
Người chiến sĩ cất bước ra đi, nhưng trong suy nghĩ luôn thấy văng vẳng bên tai những tiếng gọi tha thiết của đồng bào. Họ như không muốn phải chia tay các anh. Trạng thái bồn chồn diễn tả tâm trạng khó nói, không nỡ rời xa. Khi cầm tay nhau để nói lời từ biệt, có biết bao điều muốn nói, muốn gửi gắm và nhắn nhủ với nhau nhưng người lính và đồng bào lại không thể cất lên thành lời. Bởi lúc này, cảm xúc bỗng nhiên dâng trào, họ thấy sao mà xúc động quá, buồn lòng quá, cả một kí ức hùng tráng đành phải khép lại từ đây, để trở về với những người thân yêu đang ngày ngày chờ mong họ ở quê nhà.
Người ở lại gợi nhắc cho người ra đi những kỉ niệm gắn bó từ thuở còn khó khăn:
"Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? "
Bao nhiêu hình ảnh của quá khứ gian lao mà nghĩa tình hiện về trong kí ức của người ở lại. Người ở lại nhắc người ra đi về những ngày tháng "mưa nguồn suối lũ" khi thiên nhiên và thời tiết vô cùng khắc nghiệt, về những hôm "miếng cơm chấm muối" san sẻ ngọt bùi, những căn nhà "hắt hiu lau xám" quen thuộc trong mỗi cuộc hành quân của người ra đi. Trong những năm tháng chiến đấu gian khổ dưới điều kiện thời tiết khắc nghiệt, hoàn cảnh đói kém "ăn không đủ no, mặc không đủ ấm" thì người chiến sĩ đã được đồng bào ta bao bọc, chở che như những người ruột thịt trong gia đình. Người ra đi có nhớ chăng, những ân tình ấy sau này có lãng quên đi được hay không? Ta khẳng định sự thủy chung, son sắt đối với mình:
"Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh"
Dù có phải chia xa, nhưng tình nghĩa gắn bó suốt bao nhiêu năm dài đằng đẵng giữa ta và mình vẫn còn đó, vẫn thắm thiết tình dân quân. Người ở lại như càng tha thiết hơn khi khắc họa ra một loạt những kỉ niệm không thể quên được với những người chiến sĩ:
"Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu. . .
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi. . .
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa. . . "
Những địa danh gắn liền với những kỉ niệm như khắc họa thêm dấu ấn đậm sâu trong nỗi nhớ nhung của người ra đi và kẻ ở lại: "Ngòi Thia, sông Đáy". Nỗi nhớ giữa quân và dân chẳng khác nào nỗi nhớ đậm sâu, da diết như nỗi nhớ người yêu. Từng bữa cơm rộn rã tiếng cười, từng đêm trăng sáng chuyện trò cùng nhau, cả những khi ngắm nhìn các em nhỏ học hành, rồi phút giải lao thắm đượm bài ca người lính. Trong không gian là núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hình ảnh con người hiện lên thật đẹp với vẻ đẹp của lao động, của sự chiến đấu anh dũng nhưng không kém phần tình tứ, nên thơ. Người chiến sĩ và nhân dân san sẻ cho nhau từng củ khoai, củ sắn và đắp chung chăn trong những đêm lạnh giá nơi núi rừng hoang vu. Một kí ức đậm sâu và khăng khít không thể nào chia xa ngay được.
Đáp lại lời thơ tình tứ của người ở lại, người ra đi cũng đem nỗi lòng của mình bày tỏ với người dân nơi đây:
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. "
Cách đối đáp của hai phía thật khéo léo, thiết tha. Nếu như người ở lại hỏi rằng: "Mình về, mình có nhớ ta" thì người ra đi cũng trả lời rất tương đồng "Ta về, mình có nhớ ta". Cả dân và quân đều quyến luyến, bịn rịn trong giây phút nói lời từ biệt thiêng liêng và ý nghĩa này. Người ở lại vẽ ra một bức tranh tứ bình thật đẹp. Con người Tây Bắc hiện lên qua hình ảnh lao động chăm chỉ và đáng ngợi ca. Mùa xuân, thiên nhiên Tây Bắc được khắc họa với những bông hoa mơ nở trắng rừng. Trên nền bức tranh ấy là hình ảnh con người cần cù, chăm chỉ với hoạt động đan nón tỉ mỉ, kì công. Sang đến mùa hạ, khi tiếng ve kêu râm ran, tác giả gợi ra hình ảnh "rừng phách đổ vàng", cả một không gian như ngả sang màu vàng chói lọi của nắng hạ, dưới ánh nắng ấy vẫn là hình ảnh con người. Nhưng ở đây là người con gái dịu dàng, nữ tính đang hái những búp măng rừng. Rồi đến mùa thu với "ánh trăng rọi hòa bình" và mùa đông "hoa chuối đỏ tươi". Cả bốn mùa của tự nhiên đều đẹp, đều tình tứ trong cái nhìn của người ra đi khi nhớ về những người ở lại. Đặc biệt là khi bị giặc vây bắt:
" Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà. . ."
Núi rừng và con người Tây Bắc đã chở che, giúp đỡ những người chiến sĩ vượt qua khỏi sự săn lùng của quân giặc. Tình quân dân hiện lên thật gắn bó và đoàn kết hơn bất cứ lúc nào:
"Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. "
Nhà thơ Tố Hữu đã liệt kê một loạt những địa điểm "Hòa Bình, Tây Bắc, Đồng Tháp, Điện Biên....." để nhấn mạnh hòa bình đã đến thật rồi, trên khắp dải đất miền Bắc này. Những chặng đường không quá nhiều cũng chẳng quá ít, nó đủ để họ thấu hiểu nhau và chia sẻ với nhau. Hai đoạn thơ cuối mở ra hình ảnh thiên nhiên khi họ cùng nhau bàn về việc nước, về tương lai của dân tộc:
"Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu. . .
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào. "
Lá cờ đỏ sao vàng, quốc kì của đất nước Việt Nam hiện lên thật đẹp, đồng hành cùng với đó là hình ảnh vị cha già kính yêu của dân tộc - Hồ Chủ Tịch. Đoạn thơ gợi nhắc công lao của Đảng và bác Hồ kính yêu đã lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi, giành được nền độc lập, tự do cho đất nước. Người ở lại và người ra đi không chỉ nhớ về những kỉ niệm mà họ đã cùng nhau đi qua mà họ còn nhớ đến công lao của người đã dẫn dắt cả dân tộc có được ngày hôm nay. Thắng lợi ấy khiến cho bất cứ ai cũng thấy biết ơn và cảm phục tinh thần của những người chiến sĩ đã chiến đấu hết mình, hy sinh xương máu cho Tổ Quốc.
Việt Bắc là một bài thơ rất dài, là lời đối đáp giữa người ở lại và người ra đi, thể hiện sự quyến luyến, nỗi nhớ nhung khi phải từ biệt nhau, từ biệt những ngày tháng gian lao để xây dựng một cuộc sống mới - một cuộc sống ấm no, hạnh phúc và không có bóng quân thù. Cảm động biết bao tình cảm sâu đậm, nghĩa tình của quân và dân ta trong những năm tháng lịch sử!
Tố Hữu đã đưa những yếu tố chính trị khô khan vào thơ của mình bằng những gì giản dị và mộc mạc nhất, khiến cho người đọc không thấy bị gò bó, khó cảm nhận mà ngược lại cảm thấy rất đỗi thân quen, chứa chan nhiều cảm xúc. Từ bài thơ, Tố Hữu cũng ngầm khẳng định rằng tinh thần đoàn kết, đồng lòng của cả dân tộc sẽ giúp cho ta chiến thắng được bất cứ một mối nguy hại nào dám động đến hòa bình của Tổ Quốc. Ta thấy thêm trân trọng những giá trị và tình cảm cao đẹp của người Việt dành cho nhau.
Từ bài Phân tích bài thơ Việt Bắc, Cunghocvui.com hy vọng rằng các bạn học sinh sẽ đạt được điểm cao môn Ngữ văn với bài Phân tích này. Chúc các bạn học tốt!