Đăng ký

Nghị luận Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: văn mẫu lớp 11 hay

5,117 từ

Nghị luận Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

     Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một bài tế mang đậm phong cách thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu và còn mang nhiều ý nghĩa lịch sử. Cùng nhau Nghị luận Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để hiểu rõ thêm về những giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài tế này.

Nghị luận Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc- CungHocVui

Nghị luận Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Mở bài nghị luận văn học Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

      Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một "tượng đài nghệ thuật hoành tráng" mà thời gian không thể phá hủy. Nguyễn Đình Chiểu - người đó đã rời xa chúng ta từ lâu, nhưng những bài thơ của ông vẫn còn sống mãi với chúng ta.

Thân bài nghị luận văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

                        Hỡi ơi

                        Súng giặc đến rền Lòng dân trời tỏ.

      Tứ thơ mở đầu chia thành hai nửa gọn gàng, nhưng nó lại khái quát nên khung cảnh một cách tuyệt vời. Rất nhiều từ đã vẽ ra một cách toàn diện, về những điều mà nhà văn muốn truyền đạt: tội ác và công lý, sự đau buồn và cao đẹp, phía bên kia là khẩu súng của kẻ thù mâu thuẫn với trái tim con người.

                        Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn mà danh nổi tợ pha

                        Một trận nghĩa đánh Tây tuy là mất mà tiếng vang như mỏ.

Xem thêm:

Dàn ý phân tích văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Bài phân tích chi tiết văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

      Rõ ràng, câu thơ phản ánh sự tương phản giữa "mười năm công vỡ ruộng" và "Một trận nghĩa đánh Tây" - sự trỗi dậy mạnh mẽ, khốc liệt và nhanh chóng của nông dân. Trong mười năm ruộng đồng đổ nát, ít người biết về nó, nhưng trong một cuộc chiến tranh chống Tây, người dân của các nghĩa sĩ đã gây ra "tiếng vang như mỏ". Bốn câu thơ báo trước chủ nghĩa anh hùng, sức mạnh và lòng trắc ẩn không thể tránh khỏi của họ.

                        Nhớ linh xưa cui cút làm ăn

                        Riêng lo nghèo khó.

      Hình ảnh người thường xuất hiện, những con người sẽ làm nên lịch sử đó, họ không phải là ai cao cả, chỉ là những người sống phía sau làng tre, đằng sau những cây dừa, bụi chuối vì sự nghiệp vĩ đại và hy sinh. Họ chết khi "Tổ quốc cần". Và hình ảnh của họ trở nên rất đẹp kể từ đó. Họ chỉ là những người quen thuộc với công việc cày.

                        Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhưng, chỉ biết:

                        Ruộng trâu ở trong làng bộ.

                        Việc cuốc việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm.

                        Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó.

Nghị luận Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc- CungHocVui

Nghị luận Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

      Cuộc sống của họ yên tĩnh, chỉ lăn lộn với một miếng cơm manh áo mỗi ngày, nhưng nghèo đói vẫn sống trên đất Việt. Họ không bao giờ hình dung ra trận chiến. Khi họ lần đầu tiên nghe nói rằng người Pháp đang chà đạp lên nhân dân, họ cũng có một tâm lý chung về "dân đen" "con đỏ", sợ hãi, kỳ vọng và thất vọng.

                        Bữa thấy bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan

                        Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ.

      Mặc dù lòng căm thù chỉ được hình thành thông qua một quan niệm mơ hồ, sự phẫn nộ cũng ngày càng tăng lên. Họ muốn lao ra bằng tay không để nuốt chửng những người đã phạm quá nhiều tội ác. Đọc đến đây, tôi chợt nhớ lại câu nói đầy to lớn, cộng hưởng của Trần Quốc Tuấn "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa" (Hịch tướng sĩ). 

      Sự dằn vặt và đau đớn xé toạc trái tim, thúc giục mọi người hành động, kêu gọi mọi người muốn "nuốt gan uống máu quân thù". Họ bắt đầu nghĩ về những ngọn núi và dòng sông của đất nước và cảm thấy bị sỉ nhục nếu họ để những "chó má" đó chà đạp các giá trị tinh thần của hàng ngàn nền văn minh của quốc gia.

                        Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu

                        Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.

Xem thêm:

Top 2 cảm nhận vẻ đẹp hình tượng người nông dân trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

    Ý thức như vậy, họ đã đi đến quyết tâm thực hiện một cuộc nổi dậy. Họ vươn lên một tinh thần sẵn sàng tự nguyện.

                        Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình

                        Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”                      

      Họ hình dung ra một cuộc chiến công bằng. Họ không cần phải trốn tránh khi quê hương kêu gọi họ rất nhiệt thành. Họ biết cách chiến đấu, cống hiến hết mình để giữ bờ của những bụi chuối bờ tre, giữ cho vùng đất mà họ biết thân yêu gắn bó, giữ những điều thiêng liêng mà họ nghĩ không liên quan gì đến "tổ tiên của họ". 

Nghị luận Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc- CungHocVui

Nghị luận Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

      Hình ảnh của họ rất đẹp, trái tim của họ rất cao quý. Hình ảnh này rất khác với người lính cũ khi anh phải đối mặt với tiếng trống kêu gọi những kẻ bắt bớ "bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa".

      Tác giả Nguyễn Đình Chiểu bước vào cuộc chiến với một màu sắc giản dị và thuần khiết. Họ là những "dân ấp dân lân" với vũ khí thô sơ, chỉ là một cây sáo, một ống hút, một cây cung, nhưng họ đã dệt nên những trang lịch sử anh hùng và vinh quang. Họ rất cao đẹp, rất anh hùng và đầy can đảm. Bên trong "manh áo chật" nhỏ bé, đáng thương chứa đựng nhiều điều tuyệt vời và cao cả.

                        Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia 

                        Gươm đeo dùng hằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai họ.

      Họ là những người đơn giản nhưng anh hùng. Khi nuôi cuốc, chúng hiền lành như trái đất, nhưng khi đối mặt với kẻ thù của chúng, chúng cũng không kém phần khốc liệt. Họ hài hòa với tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam. Tinh thần đoàn kết mà Nguyễn Trãi đã ca ngợi trước đây ở Bình Ngô Đại Cáo.

                        Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới.

      Nguyễn Đình Chiểu vẽ hình ảnh của mình - về những con người cụ thể trong cuộc chiến chống Tây với cảm giác phấn khích.

                        Chi nhọc quan quản gióng, trống kỳ, trống giục đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không

                        Nào đợi thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có

                        Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh

                        Bọn hè trước lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.

Nghị luận Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc- CungHocVui

Nghị luận Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

      Cây bút của Nguyễn Đình Chiểu vui vẻ vung lên như một thanh gươm trên chiến trường khi đối mặt với lực lượng hùng hậu, xông vào như một cơn bão của quân nổi dậy. Dấu câu ngắn đã tạo ra một bầu không khí bốc lửa, mang theo sự vội vã của sự hỗn loạn. Trong cảnh đó, hoành hành giữa chiến trường, cũng có một nghĩa địa nông dân anh hùng và hùng vĩ. Giọng thơ khác với giọng nói của con cáo Nguyễn Trãi vài trăm năm trước.

                        Ngày mười tám trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

                        Ngày hai mươi trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu

                        Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong

                        Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn

      Nguyễn Đình Chiểu có lẽ cũng muốn viết nên những thất bại tích lũy của đối phương. Nhưng ở đây chúng ta thấy trận chiến dù ồn ào đến đâu, nó cũng có tính cách của những người đã quen cầm cày và cày. Họ thất bại là đúng, bởi vì:

                        Mười ban võng hệ nào đợi tập rèn

                        Chín chục trận binh thư không chờ bày bố.

      Đây là những cuộc tấn công anh hùng nhưng rất đáng thương. Nhìn vào tình hình cuộc chiến đấu chống kẻ thù của họ, những người không cảm thấy tiếc cho những người cụ thể và cho cả nước. Chính vì vậy, giai điệu thơ mộng như mặt hồ nổi bỗng nhiên lắng xuống, trận chiến cháy bỏng, bỗng trở nên lạnh lẽo hoang tàn, với một màu sắc bi thảm.

                        Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ ...

                        Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng.

                        Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ.

      Câu thơ dường như im lặng trong ký ức của tác giả. Nhà thơ gửi một nỗi đau buồn vô hạn cho người chết. Cái chết của họ làm cho cả trời đất, cây cối than khóc, nước mắt, cái chết của họ nhuốm đầy nỗi buồn trên tất cả mọi thứ. Cả bầu trời tối tăm, tối tăm trước sự hy sinh và hy sinh của các nghĩa sĩ.

                        Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm.

                        Đồng lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.

                        Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều.

                        Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

      Những hình ảnh đáng thương này gặm nhấm trái tim chúng ta, tâm hồn chúng ta đau đớn. Nguyễn Đình Chiểu đã lên tiếng nhân danh lịch sử cho các anh hùng đã anh hùng đã anh hùng đã qua đời vì đất nước. Từ những âm thanh u sầu vang vọng qua đoạn văn, chúng ta không thể phân biệt tiếng khóc của tác giả, con người, gia đình là gì, nhưng nghe một tiếng kêu chung của đất nước. Cây bút của Nguyễn Đình Chiểu đã tập hợp tất cả nỗi đau để nâng cao tiếng khóc cao cả.

Xem thêm:

Phân tích 15 câu đầu văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

      Sau một khoảnh khắc đau đớn, khóc nức nở, những lời đắm chìm trong bi kịch bỗng trở nên rõ ràng, làm nổi bật một khái niệm tuyệt vời về cuộc sống, về sự sống và cái chết.

                        Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn.

                        Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.

                        Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ củng vinh.

                        Hơn còn mà chịu chữ đầu tây, ở với man di rất khổ.”

      Nguyễn Đình Chiểu đã đưa ra một quan điểm nhân văn sâu sắc: tốt hơn là chết, nhưng chắc chắn không nên làm nô lệ, làm những điều bẩn thỉu, ô nhục. Câu thơ "sống đánh giặc thác cũng đánh giặc" được nhắc đến như một sự thật rực rỡ. Sự thật đó đã xua tan nhiều cảm xúc thương xót và mất mát của người tử vì đạo đã cống hiến toàn bộ cơ thể của mình cho đất nước và quê hương.

                        Thác mà trả nước non rồi nợ, sánh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen.

                        Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ.

      Họ là một tấm gương sáng cho tất cả các thế hệ tiếp theo. Linh hồn của nghĩa sĩ trong đài tưởng niệm tôn kính của tác giả vẫn bám víu vào cuộc đời mình để theo đuổi sự nghiệp giết chết kẻ thù và cứu nước. Với Nguyễn Đình Chiểu, họ vẫn còn sống và đáng được ngưỡng mộ.

                        Ôi chết thế không thể nào chết được

                        Không thể chết những người dân yêu nước

                        Những con người không chịu ô danh.

                                                                               (Tố Hữu)

       Cái chết của họ giống như một giấc ngủ ngắn yên bình. Nhưng sự tĩnh lặng, điềm tĩnh đó gợi lên một nỗi đau nhức nhối trong tâm trí của nhiều kiếp người.

      Với phong cách văn học phổ biến và giản dị, sử dụng nhiều thành ngữ, từ ngữ nói lên cuộc sống hàng ngày, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng hình ảnh một người nông dân đồng thời là một người anh hùng. Thông qua nghệ thuật hoành tráng đó, tác giả đã truyền tải một khái niệm tốt về cuộc sống. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tiếng khóc cao quý của một trái tim giàu tình yêu và lòng yêu nước.

Kết bài nghị luận văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

      Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã có từ lâu, nhưng lịch sử dân tộc vẫn còn mãi. Và chúng ta - những người con của đất nước phải nhớ giữ giá trị của hàng ngàn thế hệ mà nhiều thế hệ con người đã xây dựng ngày hôm nay. Nguyễn Khoa Điềm xúc động khi viết những bài thơ với lòng biết ơn tràn ngập.

                        Có biết bao người con gái con trai

                        Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

                        Họ đã sống và chết

                        Giản dị và bình tâm

                        Nhưng họ đã làm nên Đất Nước.”

                                                (Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)