Hình tượng người nghĩa sĩ trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu và hình tượng người nghĩa sĩ trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Nước ta những năm nửa cuối thể kỉ 19 vô cùng khó khăn. Chúng ta phải đối đầu với sự bất ổn trong chính trị, sự xâm lược của thực dân Pháp hùng mạnh và sự chênh lệch không thể địch nổi về mọi mặt. Thế nhưng trước tình hình ẩy, qua hình tượng người nghĩa sĩ trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu ta lại thấy một điều rất đáng ngưỡng mộ, Những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn lại vô cùng quả cảm, quyết chiến và quyết thắng, không hề sợ hãi trước kẻ thù.
Phân tích hình tượng người nghĩa sĩ trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Mở bài Nguyễn Đình Chiểu và phân tích hình tượng nghĩa sĩ trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Nói đến đại diện tiêu biểu cho những nhà nho yêu nước nồng nàn, không thể nào không nhắc đến Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888). Có lẽ cũng do bởi cuộc đời ông đã trải qua rất nhiều bất hạnh và bi kịch nên hơn ai hết, ông vô cùng thấm thía nỗi đau nước mất nhà tan trước sự xâm lược của thực dân Pháp.
Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm tiêu biểu trong thời kỳ này, trong đó phải kể đến là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài tế được viết với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn dành cho những người nông dân yêu nước, đồng thời khắc lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng nhưng cũng rất đỗi hào hùng của họ.
Xem thêm:
Dàn ý phân tích văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Bài phân tích chi tiết văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Thân bài phân tích hình tượng nghĩa sĩ trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Đằng sau tác phẩm là một câu chuyện đẫm nước mắt, khi vào năm 1859 Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, để lánh nạn Nguyễn Đình Chiểu phải về quê vợ ở ở Thanh Ba, Cần Giuộc. Thế nhưng với sức mạnh đáng sợ, Pháp dần dần mở rộng cuộc lấn chiếm sang các vùng lân cận kể cả nơi ông đang sống.
Trước cảnh tình đó, những người nông dân áo vải chân lấm tay bùn đã không hề sợ hãi, gia nhập nghĩa binh đứng lên đấu tranh chống giặc. Trong số đó đã có rất nhiều người hi sinh oanh liệt vì nghĩa lớn, gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Cũng vì điều ấy mà Nguyễn Đình Chiểu được tuần phủ Gia Định giao cho làm bài văn tế những vị anh hùng nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đêm ngày 16-12-1861.
Mở đầu bài tế là lời kêu đầy tha thiết của tác giả:
“Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ”
Tổ quốc đang lâm nguy, khắp nơi đều rền vang tiếng súng của giặc ngoại xâm. Điều ấy báo hiệu cho bao nhiêu đau thương mất mát mà nhân dân và đất nước sắp phải gánh chịu. Nhưng thời thế tạo anh hùng, lúc ấy cũng chính là khi tình yêu dành cho quê hương của những người nông dân mới được sáng tỏ cùng trời đất.
Và tấm lòng thấu trời xanh ấy càng được thể hiện rõ rệt và sâu sắc hơn qua từng hình ảnh, từ ngữ và cách Nguyễn Đình Chiểu dùng biện pháp so sánh đối lập trong các câu văn tiếp sau:
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng
Trước đây những người nông dân ấy vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong lặng thầm, chỉ biết “cui cút làm ăn”. Nỗi lo toan “cơm áo gạo tiền” giản dị đời thường đã chiếm hết thời gian trong cuộc sống, quanh năm làm lụng việc nông, cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng.
Xem thêm:
Top 2 cảm nhận vẻ đẹp hình tượng người nông dân trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Họ như chính cách Nguyễn Đình Chiểu miêu tả, nông dân áo vải nào biết "cung ngựa", "trường nhung" là gì, cũng đâu quen với "tập mác, tập cờ". Không biết chiến trận, không được rèn luyện, một lòng đứng lên đánh giặc chỉ vì lòng yếu chính ghét tà.
Họ cũng đã vốn chờ mong lệnh của triều đình, thế nhưng "trông tin quan như trời hạn trồng mưa" mặc dù khi mà "tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng". Triều đình nhu nhược đến mức trở thành bi kịch xót xa, nào hiểu được lòng dân yêu nước, lòng dân căm thù giặc đến mức chẳng thể kiềm chế:
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm,
Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ
... Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ.
Nhỏ bé như vậy, nhưng khi giặc đến hình tượng người nông dân- những người nghĩa sĩ yêu nước lại thật dũng cảm và hào hùng. Có lẽ điều ấy xuất phát từ chính trái tim tràn đầy tình yêu với tổ quốc, khiến họ trở nên đẹp đẽ và lấp lánh.
Với lòng căm thù giặc sục sôi, ghét “ thói mọi như nhà nông ghét cỏ”, chỉ muốn “ăn gan”, “cắn cổ”, hận những kẻ phá hoại đi chính nơi quê nhà thân yêu. Tất cả đã biến thành những hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ
Chiến tranh đâu phải mới xảy ra lần đầu. Trước kia các cuộc sát phạt phi nghĩa cũng đã được lưu dấu ấn trong những tác phẩm văn học, khi mà những người nông dân bị ép phải làm lính biên thú phương xa. Tất cả chỉ vì lợi ích của nhà vua, họ đã từng ra đi với tâm trạng và thái độ "bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa".
Phân tích hình tượng người nông dân trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Thế nhưng người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác biệt. Ở đó ta thấy một tinh thần tự nguyện cao cả, sẵn sàng đứng lên chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ giang sơn. Không chỉ còn là vẻ đẹp trong tâm hồn, mà tất cả đã được thể hiện ra bằng hành động và được tác giả khắc họa một cách rõ rệt.
Những người nghĩa sĩ sẵn sàng tự nguyện đặt trên vai trách nhiệm lịch sử, và cũng chính đó đã tạo ra một sức mạnh vô cùng to lớn để đứng lên chống giặc. Chẳng đợi chờ tin tức hay bày bố của triều đình hèn nhát, vô tâm mà "ngoài cật có một manh áo vải nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ".
Từ những hình ảnh trước mắc, chắc hẳn ai trong số chúng ta cũng cảm sự xót xa xen lẫn tự hào dân tộc. Người người nông dân- nghĩa sĩ anh hùng chính là hiện thân cho sự can đảm và tình yêu đất nước, không hề sợ hãi trước quân xâm lược tàn ác, lớn mạnh.
Chống lại đội quân đội quân nhà nghề với " đạn nhỏ, đạn to", "táu thiếc, tàu đồng", tất cả những gì họ có chỉ là " dao phay”, "hỏa mai đánh bàng rơm con cúi". Áo giáp là vải rách, vũ khí là ngọn tầm vông, tất cả chỉ cần vậy là đủ, họ xông lên không hề sợ hãi.
Nhưng ai mà không biết rằng đem chúng ra đối chọi với nhau chẳng khác gì tự đâm đầu vào chỗ chết. Nó dẫn đến tấn bi kịch đầy đau đớn của người nghĩa sĩ Cần Giuộc nói riêng và cả tổ quốc nói chung, khi đưa đến họa mất nước kéo dài hàng thế kỷ. Giữa tấn bi kịch ấy, vẻ đẹp của họ bừng sáng rực rỡ cùng với sự ngoan cường, lòng yêu nước nồng nàn, tất cả lại làm nên điều phi thường- bản anh hùng ca chiến tranh của dân tộc.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh…
Trong cái thời kì đầy đen tối của họa mất nước những năm cuối của thế kỉ XIX, những người nông dân ấy lại hiện lên trong vẻ đẹp hào quang và rực rỡ. Nó làm lu mờ đi tất cả những điều tồi tệ nhất, tạo nên bao kỳ tích diệu kì bằng chỉ vũ khí thô sơ và tinh thần dân tộc quả cảm.
Xem thêm:
Phân tích 15 câu đầu văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Nghị luận văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Kết bài
Tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu chính là tượng đài bằng ngôn từ, vĩnh viễn lưu giữ hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng. Nó là dấu mốc thể hiện rằng trước bi kịch mất nước của dân tộc. tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta chưa bao giờ phai nhòa. Nó là ánh sáng le lói tạo niềm tin cho chính những năm tháng đen tối trong lịch sử ta, thời kì một trăm năm Pháp thuộc.
Thật tuyệt vời và tự hào khi có thể đứng lên tuyên bố rằng tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng. Nó được thể hiện qua chính hình ảnh những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, lý tưởng cao đẹp, sẵn sàng hi sinh vì dân tộc, vì nghĩa lớn.