Chứng minh Nước Đại Việt ta là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc
Chứng minh Nước Đại Việt ta là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc
Nước Đại Việt ta là áng văn tràn đầy tự hào của dân tộc là đề văn không còn xa lạ với các bạn học sinh. Thế nhưng làm sao để hoàn thành đề văn này tốt nhất, độc đáo, đạt điểm cao thì không dễ dàng. Cùng tham khảo bài văn mẫu dưới đây để hoàn thành tốt nhất.
Nước Đại Việt ta là mở đầu của Bình Ngô đại cáo
Mở bài chứng minh nước Đại Việt ta là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc
Nguyễn Trãi (1380–1422) là một quân nhân đa tài, một chính trị gia sáng suốt, một nhà ngoại giao hơn con người, và ông được UNESCO công nhận là Di tích Văn hóa Thế giới (1980). "Lịch sử toàn thư của Đại Việt" được trích dẫn trong "Bình Ngô Đại Đại" được xuất bản vào đầu năm 1428, sau khi quân đội ta vượt qua quân minh. Công trình này được coi là một ngôi chùa cổ có giá trị như tuyên ngôn độc lập thứ hai của người Đại Việt. Trích đoạn "Nước Đại Việt của Nguyễn Trãi là một bài viết đầy tự hào và tinh thần dân tộc.
Xem thêm:
Hướng dẫn soạn nước Đại Việt ta chi tiết, mới nhất
Dàn ý chứng minh nước Đại Việt ta là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc
Thân bài
Thực sự! Ngay từ đầu bài viết, Nguyễn Trãi đã nêu lên một cái nhìn khá đầy đủ về Tổ quốc và chủ quyền quốc gia. Trước hết, tác giả đã bày tỏ suy nghĩ của nhân loại, coi đây là một nguồn sức mạnh.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”
Cốt lõi trong tư tưởng nhân loại của Nguyễn Trãi là "hòa bình của nhân dân" và "trừ tà". Người Yến đang làm cho mọi người tận hưởng hòa bình và hạnh phúc. Nếu bạn muốn được hòa bình, trước tiên bạn phải loại bỏ sự tàn bạo. Những người mà tác giả đề cập ở đây là người Đại Việt đang đau khổ dưới ách của quân Minh xâm lược. Như vậy, khái niệm nhân văn và nhân văn của Nguyễn Trãi gắn liền với lòng yêu nước, gắn liền với dân tộc, dân tộc.
Những bạo chúa mà tác giả đề cập ở đây không ai khác chính là quân xâm lược nhà Minh nói riêng và những kẻ xâm lược nói chung. Đối với Nguyễn Trãi, lòng yêu nước gắn liền với chống xâm lược. Nhân loại không chỉ nằm trong mối quan hệ giữa con người mà còn trong mối quan hệ giữa quốc gia và dân tộc. Đây là một nội dung mới, sự phát triển của những ý tưởng mới về chủ nghĩa nhân văn của Nguyễn Trãi so với Nho giáo.
Tiếp theo tư tưởng nhân văn và công lý của Nguyễn Trãi, ông bày tỏ niềm tự hào về độc lập và chủ quyền quốc gia thông qua 8 câu thơ tiếp theo.
Nước Đại Việt ta là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Đất nước chúng ta có bốn ngàn năm văn minh với toàn bộ quá trình xây dựng một đất nước kiên cường và bền bỉ. Hai câu này mô tả bản chất rõ ràng và vốn có của Đại Việt.
“Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Tác giả đưa ra các yếu tố cơ bản để xác định chủ quyền, văn hóa lãnh thổ, phong tục, chủ quyền và lịch sử vĩnh cửu của dân tộc với những yếu tố cơ bản này, Nguyễn Trãi đã hoàn thành khái niệm So với ý thức của dân tộc trong tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc - bài thơ "Sông núi nam bộ" - trong tác phẩm này của Nguyễn Trãi, tôi thấy nó vừa kế thừa, vừa thăng tiến vừa hoàn thiện.
Ý thức độc lập của dân tộc thể hiện ở sông núi phía Nam được xác định ở hai khía cạnh: lãnh thổ và chủ quyền; Cũng trong bài viết: Ở nước ta Đại Việt, ý thức dân tộc đã phát triển sâu sắc, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức độc lập dân tộc cũng được mở rộng và thêm vào các yếu tố mới: đó là một nền văn hóa lâu đời, đó là phong tục, truyền thống và truyền thống anh hùng lịch sử của riêng nó. Có thể nói, ý thức dân tộc cho đến thế kỷ 15 đã phát triển sâu sắc và toàn diện so với thế kỷ thứ 10.
Trong bài hát Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt thể hiện niềm tự hào dân tộc và tự hào khi gọi Đại Việt vua Nam Đức, nâng vị thế của chúng ta lên tầm cao mới của chế độ phong kiến Trung Quốc. Trước những báo cáo vĩ đại của Bình Ngô, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy tinh thần đó.
Nước Đại Việt ta là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào chẳng có.”
Nguyễn Trãi đã tiếp tục phát huy niềm tự hào dân tộc sâu sắc, vững mạnh trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để tăng lý thuyết hạnh phúc cho bài viết, phương pháp so sánh kết hợp với danh sách cũng làm cho đoạn văn có hiệu quả cao trong đối số. Tác giả đặt đất nước chúng ta ngang hàng với các triều đại phong kiến Trung Quốc trên nhiều khía cạnh như trình độ chính trị, văn hóa,.... Đặc biệt, những câu mâu thuẫn, chạy song song liên tiếp, cũng giúp nội dung sự thật và sự thật mà tác giả muốn khẳng định vững chắc và rõ ràng hơn.
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi.
Trong bài viết của Nam quốc Sơn Hà. Lý Thường Kiệt khẳng định sức mạnh của sự công bình: kẻ thù độc tài (nổi loạn) vi phạm ý nghĩa nhân đạo, cam kết sách thiên đàng (trên trời), nghĩa là đi ngược lại sự thật khách quan, họ chắc chắn sẽ tinh chỉnh thất bại. cái chết (thất bại).
Đối với tuyên bố của Bình Ngô, Nguyễn Trãi đã đưa ra bằng chứng hùng hồn về sức mạnh của lẽ thật và sức mạnh của sự ngay chính. Tướng quân địch bị giết, người còn lại bị bắt: Lưu Cung... thất bại, Triệu Tiệp... chết, bắt Toa Do còn sống, giết Chết Ô Ma... Các chứng cứ vẫn được ghi chép rõ ràng trong lịch sử chiến đấu chống xâm lược đại Việt. Bằng chứng về niềm tự hào lớn lao của dân tộc là có cơ sở.
Xem thêm:
Phân tích nước Đại Việt ta chi tiết, mới nhất
Dàn ý phân tích nước Đại Việt ta
Kết bài chứng minh nước Đại Việt ta là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc
Đoạn mở đầu của bài viết Bình Ngô tuyên bố không dài, tuy nhiên, nó vẫn là điểm tựa và nền tảng lý thuyết cho toàn bộ bài viết. Đoạn văn được khái quát hóa cao, giàu bằng chứng lịch sử, chứa đầy cảm giác tự hào. Bề mặt của bài luận là sự nghiêm ngặt nghiêm ngặt của việc giảng dạy, và chiều sâu sâu sắc của suy nghĩ của nhân loại và cốt lõi của chủ nghĩa nhân văn.