Soạn bài Lão hạc - Soạn văn lớp 8
Câu 1: Diễn biến tâm trạng của lão Hạc xung quanh việc bán cậu Vàng
Mặc dù rất yêu thương con chó Vàng, nhưng lão Học cũng dành phải bán đi vì không nuôi nổi nó và sợ tiêu lạm vào số tiền lâu nay lào đã dành dụm cho đứa con trai, đứa con vì nghèo mà phẫn chí bỏ làng đi.
Nỗi đau của người cha bất hạnh này là ở chỗ đó.
Lão Hạc toan tính mãi dằn vặt mãi và do dự mãi mới quyết định gọi người tới bán.
Khi chuyện trò với ông giáo về việc bán con chó Vàng, lăo cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mát ầng ậng nước... Mặt lảo đột nhiên co rúm lại. Nhừng vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lăo ngoẹo về một bên và cái miệng mỏm mém cứa lăo mếu máo như con nít. Lào hu hu khóc... Lão Hạc cứ day dứt, ăn năn mãi vì già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó. Những chi tiết miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão lúc ấy cho thây nội tâm của lão đang đau đớn, xót xa, ân hận đến cùng cực.
Tình cảm của lão Hạc đối với con chó Vàng là sự thể hiện gián tiếp tình yêu thương sâu nặng của lão đối với con trai. Từ ngày anh con trai phẫn chí bỏ nhà đi phu đồn điền cao su vì không có tiền cưới vợ, lão Hạc ở nhà đợi con về luôn mang tâm trạng day dứt vì đã không cho con bán vườn lấy vợ. Lão ân hận thấy mình có lỗi vì không lo liệu nổi cho con. Lão cố tâm dành dụm để khỏa lấp mặc cảm ấy! Do vậy, dù rất thương cậu Vàng nhưng đến nỗi này thì lão cũng phải bán, vì không muôn tiêu phạm vào đồng tiền và mảnh vườn mà lão cô' giữ cả cho con trai. Việc phải bán cậu Vàng cho thấy tình thương con của lão Hạc sâu nặng biết bao.
Câu 2: Nguyên nhân cái chết của íão Hạc. Suy nghĩ về tình cảnh cùng đường và về bản chất, tính cách của lão qua những đỉều lão thu xếp nhờ cậy "ông giáo" rồi sau đó tìm đến cái chết
Tình cảnh túng quẫn, đói khổ ngày càng đe dọa lão Hạc và đẩy lão vào cõi chết để tìm một lối thoát cuối cùng, đủ thây số phận bi thảm của những người nông dân nghèo khổ ở những năm đen tối trước Cách mạng tháng Tám.
Nhưng suy cho cùng, việc lão tìm đến cái chết một cách tự nguyện là cũng vì con. Nên nhớ, khi đó lão Hạc còn ba mươi đồng bạc (một số tiền khá lớn thời bấy giờ) và mảnh vườn ba sào. Nhưng lão nhất quyết không tiêu phạm vào cái vốn liếng cuối cùng mà lão đã dành cho con. Lão Hạc chết là để dành phần sống cho con trai lão. Lão Hạc cũng là người đầy khí tiết, có lòng tự trọng. Thà chịu đói, chịu chết chứ không ngửa tay xin người khác.
Qua những điều lão Hạc thu xếp và nhờ cậy “ông giáo”, ta thấy lão là con người cẩn thận, chu đáo, hay suy nghĩ và nhận biết rõ tình cảnh của mình khi đó . Láo đau đáu một nỗi lo không giữ được ba sào vườn cho con trai. Lão tự trọng, không muốn gây phiền hà cho lốì xóm bà con nên đã âm thầm lo liệu mọi đường cho cái chết của mình từ khi bán “cậu Vàng".
Câu 3: Thái độ, tinh cảm của "ông giáo" đối với lão Hạc
Khi nghe lão Hạc kể chuyện, "ông giáo" ái ngại cho tình cảnh của lão. Ong an ủi và sau đó nhận lời nhờ cậy của lão. Nhiều lúc ông đã giđu giếm vợ ngấm ngầm giúp dỡ cho người láng giềng tội nghiệp này. Khỉ hiểu lầm lAo Hạc làm liều, ổng giáo hơi thất vọng, cảm thầy cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn. Vì xưa nay, ông vẫn tin vào nhân cách của lão Hạc.
Đến lúc hiếu ra, đó chỉ lò sự hiếu lổm. Cái chết của lão Hạc càng làm sáng tỏ thêm vẻ đẹp tâm hồn của lão. Ông giáo thấy "cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn” vì cuộc đời vần không làm mất đi niềm tin của ông vào bản chất lương thiện của người nông dân lao động. Ông giáo tự hứa trao lại sô' tiến và ba sào vườn lão đã gửi gắm cho con trai của lão.
Câu 4 : Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc xin bả chó để định bắt một con chó hàng xóm thì “ông giáo” cảm thấy “cuộc đời quả thật đáng buồn”. Nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn của lão Hạc “ông giáo” đã nghĩ: “Không! Cuộc đời chưa hdn đã đăng buồny hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Em hiểu ý nghĩa nhân vật "tôi" như thế nào ?
Ông giáo cảm thấy: “Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn” vì lâu nay ông vẫn tin vào nhân cách của lão Hạc, đâu ngờ “bần cùng sinh đạo tặc” “đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết”.
Nhưng đó chỉ là hiểu lầm. Lão Hạc xin bả chó là để tự kết liễu đời mình. Cái chết đột ngột càng làm sáng đẹp thêm những phẩm chất đáng quý của lão. Vì vậy, ông giáo cảm thấy: “Không! Cuộc đời chưa hẳn là đáng buồn” (vì cuộc đời vẫn còn những con người đáng quý, thà chịu chết vật vã đau đớn mà không làm phiền lụy con cái, láng giềng). Sở dĩ ông giáo lại nghĩ: “nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác” là vì trong cuộc đời ấy, những con người lương thiện như lão Hạc không có đất sống, cái giá của người gìn giữ nhân cách đã được nhà văn thể hiện một cách thành công.
Câu 5 : Đặc sắc nghệ thuật của truyện
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật chủ yếu là qua nhân vật lão Hạc:
Nhà văn Nam Cao rất điêu luyện trong việc xây dựng nhân vật lão Hạc. Bằng phương pháp đối lập, nhà văn tạo vẻ bề ngoài cho lão Hạc dường như lẩm cẩm, gàn dở, đôi lúc bị nghi ngờ là phường “đâm heo thuốc chó” nữa, nhưng bên trong lão lại là một người có vẻ đẹp tâm hồn cao quý, đáng kính trọng.
- Cách dựng truyện
Nhà văn dựng truyện chán thực và sình động, ổng dẫn người đọc đi vào mạch truyện đáy khéo léo, bất ngờ. Càng lúc truyện càng câng thẩng, qua dó, bộc lộ tính cách nhân vật. Anh con trai vì nghèo đói đá bỏ làng ra đi dồn điền cao su kiếm tiền. Lão Hạc ở nhà chăm sóc con chó của con mình như một kĩ vật. Rồi do bệnh tật, thất nghiệp, đỏỉ kém, lão phải bán con chó. Nhưng do sợ tiêu mất tiền dành dụm, mất vườn của con nên ỉâo gửi tiền và văn tự bán vườn cho ổng giáo. Lão xin bả chó của Đinh Tư để tự tử. Cái chết đột ngột cửa ỉôo để giải quyết mâu thuản giữa tinh thương con và sự đói nghèo. Việc lão xin bả chố của Bỉnh Tư tạo sự hiểu lầm hâp dồn làm cho hình ảnh lảo Hạc sau dó, khỉ mọi việc được hiểu đúng, sáng đẹp hơn biết bao lần...
- Ngôn ngữ của truyện
Truyện được viết với nghệ thuật ngôn ngữ cô đọng. Nét nổi bật là ngôn ngừ đốì thoại và độc thoại đầy chất trữ tình mang cả tình cảm, suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật.'
Câu 6 : Em hiểu thế nào về ý nghĩ của nhân vật "tôi" qua đoạn văn :
Sau khi vợ nhận xét không hay về lão Hạc, ông giáo suy nghĩ: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố gắng mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cái cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương: không bao giờ ta thương...”.
Suy nghĩ của ông giáo thể hiện cách nhìn nhận người nông dân của nhà văn Nam Cao. Theo nhà văn, chúng ta phải nhìn nhận và đánh giá bằng đôi mắt của tình thương và lòng tin mới thấy hết được bản chất tốt dẹp của họ. Đây đúng là một quan điểm tiến bộ, đúng đắn và sâu sắc, đầy tính nhân văn của nhà văn Nam Cao.
Câu 7 : Cảm nhận về cuộc đời và tính cách người nông dân trong xã hội cũ qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc
Từ đoạn trích Tức nước vờ bờ và truyện ngắn Lão Hạc, người đọc thấy được tình cảnh túng quẫn, nghèo khổ cùng đường của tầng lớp nông dân bần cùng trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Lấp lánh trong từng trang văn ấy là vẻ đẹp tâm hồn cao quý, lòng tận tụy hi sinh vì người thân ruột thịt của con người lam lũ, cùng khổ nhưng rất đáng kính trọng ấy.
Nếu vẻ đẹp tâm hồn của chị Dậu là sức mạnh của tình yêu thương, của tiềm năng phản kháng thì vẻ đẹp của lão Hạc là vẻ đẹp của nhân cách, của hoa sen nở cánh trong bùn, của con cò lộn cổ xuống ao dù chêt cũng muôn chết trong sạch.