Đăng ký

Nghị luận văn học: Nghị luận bài thương vợ Tế Xương văn mẫu 11 hay

3,569 từ Nghị luận

Nghị luận bài thương vợ: Nghị luận văn học

      Là một nhà thơ có tài nhưng không gặp thời, Tú Xương đã từng gặp rất nhiều điều tiếc nuối trong con đường công danh sự nghiệp. Cũng bởi vậy mà gánh nặng gia đình được đặt hết trên vai vợ ông- bà Tú. Ông đã có lần bày tỏ lòng biết ơn và thương cảm cho bà qua bài thơ Thương vợ. Hãy cùng tìm hiểu kĩ hơn qua phần nghị luận bài thương vợ dưới đây.

Hướng dẫn viết văn phần nghị luận bài thương vợ của Tú Xương (Trần Tế Xương)

Mở bài nghị luận văn học thương vợ

      Nói đến dòng thơ trào phúng trong nền văn học Việt Nam không thể không nhắc đến Tú Xương. Ông nổi danh với những bài thơ lém lỉnh, lấy tiếng cười làm vũ khí sắc nhọn để châm biếm, đả kích sâu cay sự đồi bại và xấu xa của xã hội thực dân nửa phong kiến. Thế nhưng đôi khi, độc giả cũng được thấy một phần khác trong con người ông, một nhà nho nghèo nhưng chất chứa tình đời và tình người sâu nặng thông qua những tác phẩm trữ tình.

Thân bài nghị luận bài thơ thương vợ

      Trong đó có lẽ bài thơ nhận được nhiều sự đồng cảm và chạm đến trái tim người đọc nhất chính là “Thương vợ”. Toàn bộ tác phẩm vừa là một bài thơ thế sự, vừa là lời tâm sự chan chứa tình yêu thương nồng hậu của tác giả tới người vợ. Vợ của Tú Xương vốn vô cùng đảm đang, chịu thương chịu khó: 

                              “Quanh năm buôn bán ở mom sông,

                              Nuôi đủ năm con với một chồng”

      Mở đầu đã cảnh đầu tắt mặt tối, “quanh năm”, từ ngày ngày qua tháng khác không hề được nghỉ ngơi. Nơi bà Tú buôn bán là ở “mom sông” với cái thế đất chênh vênh, mỏm đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước. Với cái thế đất ấy, ta đã tưởng tượng ra được một cuộc đời quanh năm ngày tháng cơ cự, đắng cay, phải vật lộn đủ đường mới có thể “nuôi đủ năm con với một chồng”.

Xem thêm:

Top 3 cách mở bài thương vợ hay nhất

Cảm nhận về bài thơ thương vợ ngắn gọn

      Là một phụ nữ, một người mẹ, người vợ, mọi trách nhiệm nặng nề đều đặt trên vai bà. Vốn dĩ ở đời người ta chỉ đếm tiền đếm bạc, đếm mớ rau con cá,... chứ nào ai lại đi “đếm” chồng, đếm “con” bao giờ? Hóa ra ẩn giấu trong câu thơ tự trào ấy là cả một nỗi niềm chua xót bởi cảnh khó khăn gia đình đang gặp phải: đông con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”.

      Qua nghị luận thương vợ ở hai câu thơ phần đề, chắc chúng ta ai cũng tự hiểu rằng nếu không phải là một người đảm đang, tần tảo thì sao bà Tú có thể giữ được cửa nhà êm ấm. Tiếp đến ở phần thực, chân dung bà lại được Tú Xương tô đậm thêm với cảnh hàng ngày,  “thân cò” nơi “quãng vắng” mỗi sáng mỗi tối đều “lặn lội” đi đi về về. 

      Từng nhịp tăng dần, cùng những nét vẽ, gam màu dần dần nối tiếp bổ trợ và gia tăng nhấn mạnh thêm nỗi cực nhọc mà người vợ phải trải qua. Đã “lặn lội” Lại “thân cò”, rồi còn “khi quãng vắng”. Nỗi cực nhọc kiếm sống ở “mom sông” tưởng như không thể nào nói hết được!

      Ta vốn quen thuộc với hình ảnh con cò trong các câu ca dao xưa:  “Con cò lặn lội bờ sông…”, “Con cò đi đón cơn mưa…”, “Cái cò, cái vạc, cái nông,..” Và ở trong thơ của Tú Xương, nó được tái hiện lại một cách tinh tế qua hình ảnh “thân cò” lầm lũi. Tất cả cho ta liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ: 

                              ​​​​​​​“Lặn lội thân cò nơi quãng vắng

                              ​​​​​​​Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

      Từ láy tượng hình “eo sèo” vừa đến tai. Cũng chính là lúc những hình ảnh trong đầu được bật ra ngay tức khắc: Cảnh trung mua tranh bán, rầy rà lời nói, cảnh cãi vã ồn ã nơi “mặt nước” lúc “đò đông”. Một cuộc đời chẳng biết gì gọi là bình yên bởi bao năm cuộc đời đều chịu cảnh “lặn lội”, làm ăn nơi “eo sèo”.

Nghị luận văn học thương vợ

      Nhờ nghệ thuật đối đặc sắc, làm nổi bật được cảnh kiến ăn nhiều cơ cực mới giúp người đọc thấu được rằng gánh nặng kiếm bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng” phải chịu. Trong thời buổi đầy khó khăn, “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, bao nhiêu giọt mồ hôi và nước mắt rơi xuống mới có thể làm được việc ấy. 

      Trong nghị luận bài thương vợ, hai câu luận tiếp theo chứa hai thành ngữ quen thuộc  “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa” đã được Tú Xương vận dụng rất sáng tạo. Chúng tạo thế đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:

                              ​​​​​​​“Một duyên hai nợ, âu đành phận,

                              ​​​​​​​Năm nắng, mười mưa dám quản công.”

      Là một đất nước nông nghiệp, thì “nắng” và “mưa” chính là thứ tượng trưng cho mọi vất vả khổ cực mà con người phải chịu. Bà Tú bởi “duyên” là duyên số, duyên phận, mà phải cam chịu đựng trả cái nợ đời mặc dầu mọi nhọc nhằn ấy.  “một… hai… năm… mười…” rồi các số từ trong câu cứ dần dần tăng lên, như vừa nhấn mạnh, lại vừa làm nổi rõ lên đức hi sinh thầm lặng của bà. 

Xem thêm:

Bài văn chi tiết phân tích thương vợ của Tế Xương

Dàn ý hình ảnh bà Tú trong thương vợ

      Bao nhiêu ngày tháng và khó khăn như vậy nhưng cũng chỉ là  “Âu đành phận”, … “dám quản công” … Qua giọng thơ xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le ta hiểu rằng tất cả những thứ người phụ nữ ấy làm chỉ vì mong cho gia đình ấm no, hạnh phúc. 

      Ở sáu câu thơ đầu, Tú Xương đã phác họa một cách rất chân thực về hình ảnh bà Tú bằng tất cả sự biết ơn và lòng cảm phục. Bà hiện ra qua ngòi bút ông như một người vợ hiền thảo với những đức tính vô cùng đáng quý:  Thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình, không ngại khó khăn, chịu thương chịu khó, đảm đang tần tảo vô cùng. 

      Nghị luận bài thương vợ, qua hai câu kết ta thấy, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình:

      Có một người vợ tuyệt vời như vậy, ở hai câu thơ cuối, Tú Xương chỉ biết dùng những từ ngữ thông tục nhất, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị để tự trách chính mình: 

                              ​​​​​​​“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

                              ​​​​​​​Có chồng hờ hững cũng như không!”

      Vốn là kẻ “ngồi không ăn lương vợ”, sao mà lại ăn ở bạc bẽo quá. Là người chồng, người cha trong gia đình, vô tích sự, đã chẳng thể làm trụ cột để dựa dẫm mà còn nỡ hờ hững với vợ con. Nghe lời tự trách ấy của Tú Xương, ta cũng cảm thấy sao thật chua xót! 

Xem thêm: 

Sơ đồ tư duy Thương vợ của Tế Xương

Hình ảnh bà Tú qua bài thơ Thương vợ của Tế Xương

      Ông vốn là nhà văn có tài, thể hiện qua chính những tác phẩm quý báu còn được lưu giữ lại đến bây giờ. Thế nhưng giữa một xã hội “dở Tây, dở ta”, chữ nho mạt vận, đường công danh của Tú Xương cứ mãi dở dang, thi cử lận đận. Khi mà đến “Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co”, quả cũng là điều dễ hiểu khi nhà thơ tự trách mình đồng thời cũng là trách đời đen bạc. Ông lấy đâu ra thời gian để  vinh thân phì gia “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”?

      Nghị luận bài thương vợ ta thấy cả bài thơ nói chung và hai câu kết nói riêng là tiếng nói của một nhà trí thức nặng tình đời, thương vợ con và thương cả thân mình. Ông giàu nhân cách, có đủ tài năng, thế nhưng biết phải làm sao với nỗi đau thất thế khi cảnh đời thay đổi. 

      Nghị luận bài thương vợ, ta thấy là tác phẩm được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. Trong “Thương Vợ” Tú Xương đã có cơ hội thể hiện khả năng điêu luyện trong sáng tạo hình ảnh và sử dụng ngôn từ. Sức hấp dẫn của từng áng văn chương thể hiện qua các từ láy, số từ, phép đối, thành ngữ sử dụng liên tục trong bài và hình ảnh “thân Cò” quen thuộc. 

      Ngôn từ thơ bình dị như tiếng nói đời thường kể về sự vất vả của bà Tú nơi mom sông, vị trí quen thuộc của những thương buôn nhỏ cách đây hàng thế kỉ. Các chi tiết đều được chọn lọc một cách kĩ lượng, vừa mang tính cá thể lại có thể khái quát sâu sắc. Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. 

Kết bài nghị luận bài thương vợ

      Qua phần nghị luận Thương vợ, ta thấy đây là một  bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao đức tính tốt đẹp. Hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam. Cũng có thể vì lẽ ấy mà, Tú Xương chiếm một địa vị vẻ vang trong nền văn học Việt Nam, để tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị.

shoppe