Cảm nhận về bài thơ Thương vợ ngắn gọn - Trần Tế Xương
Cảm nhận về bài thơ Thương vợ ngắn gọn - Trần Tế Xương
Bài học hôm nay cũng học vui xin được giới thiệu với các bạn một tác phẩm nổi tiếng trong chương trình Văn học lớp 11, bài thơ Thương Vợ của nhà thơ Trần Tế Xương. Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Thương vợ để hiểu rõ nỗi lòng của tác giả!
I. Dàn ý cảm nhận bài thơ Thương vợ
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả
- Trích dẫn tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác và tóm tắt nội dung.
2. Thân bài
- Phân tích hình ảnh bà Tú dưới cái nhìn của người chồng:
+ Trước hết, cần nói ngay rằng chủ đề bài thơ rất rõ ràng, hiện ra ngay ở tiêu đề bài thơ. Nếu cần nói thêm cho cụ thể, thì đó là: Thương vợ là bài thơ nói về sự ân cần đằm thắm của nhà thơ đối với người vợ hiền thục, đảm đang, tần tảo, rất mực yêu chồng, thương con của mình.
+ Với chủ đề như vậy, theo chúng tôi, nét hóm hỉnh - một nét đặc trưng của phong cách thơ Tú Xương - e không có ở trong bài thơ này. Ngay bốn câu cuối là lời bà Tú qua giọng nói của nhà thơ cũng không có nét ấy.
- Tác giả thương cảm trước sự lam lũ của người vợ:
+ Sự lam lũ vất vả và đảm đang tần tảo của bà Tú được thể hiện ngay trên câu chữ của bài thơ với những hình ảnh rất gần gũi với cuộc sống của người bình dân mà chúng ta đã gặp nhiều trong ca dao, dân ca, tục ngữ: Lặn lội thân cò, eo sèo mặt nước buổi đò đồng, Năm nắng mười mưa v.v...
+ Có lẽ không cần nói gì thêm về khả năng biểu đạt của các thành ngữ trong những câu thơ này. Điều chúng tôi thấy cần quan tâm là khả năng biểu đạt to lớn của những từ ngữ hết sức thông thường, dễ bị bỏ qua. Đó là mom sông và quanh năm. Những từ ngữ này tạo thành một cặp đối lập - liên kết giữa một không gian chật hẹp (mom sông) với một thời gian dài, liên tục, không xác định (quanh năm).
- Cảm nhận của người chồng và lòng biết ơn trước sự hi sinh của vợ mình.
3. Kết bài:
- Nêu lên cảm nhận và suy nghĩ của bản thân.
Xem thêm:
II. Bài mẫu nêu cảm nhận của em về bài thơ Thương vợ
Yêu cầu: Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Thương vợ
Thương vợ là một tác phẩm nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của nhà thơ Trần Tế Xương. Vì sức khỏe yếu nên mọi trọng trách trong gia đình đã đè nặng lên đôi vai của người vợ tần tảo. Bài thơ đã đem lại nhiều cảm xúc và có ý nghĩa Văn học cao. Nó phác thảo lên những khó nhọc mà con người xưa kia phải chịu đựng và cố gắng.
“Quãng vắng” đối lập “đò đông” gợi tả không gian xung quanh bà tú theo dòng thời gian nhanh thoan thoắt, lúc như hành hạ trong nỗi cô đơn tủi hờn, có lúc tất bật bởi bao lời ăn tiếng nói bán buôn khi đò đông lên thì phải lẹ làng mặc cả buôn bán kiếm cái ăn đâu chỉ cho riêng mình cũng giống như :
“Con cò lặn lội bờ ao
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”
Trong câu thơ thứ ba tác giả đã đảo ngược từ lặn lội đứng trước danh từ chủ thể thân cò kết hợp với cụm từ quãng vắng, ngoài ra có thể để ý ta sẽ thấy một sự đối lập ở hai câu ba và bốn giữa 'lặn lội' và 'eo sèo'; 'khi quãng vắng' - 'buổi đò đông' cho thấy nỗi vất vả một mình của bà Tú vừa phải gánh vác công việc để kiếm tiền đảm bảo một cuộc sống vừa đủ lại vừa phải lo toan việc gia đình.. Còn bà Tú dẫu mệt mỏi bởi việc kiếm nuôi gia đình nhưng có bao giờ buông lời than thở trách cứ, không một lời than phiền giống tiếng khóc nỉ non của cò đâu, dừờng như nỗi u buồn nén chặt bởi sự hi sinh đức độ là trái tim đầy yêu thương , điều đó càng làm cho sự cảm thông và ái ngại dâng đầy trong suy nghĩ nhà thơ.Số phận bà tú bây giờ xoáy theo vòng đời xuôi ngựơc bon chen tìm nh gì có thể nuôi sống gđ trong đó có ng chồng bất tài.Câu thơ này nhà thơ khéo léo mựon hình ảnh dân gian cùng biện pháp đảo ngữ tạo giọng thơ man mác buồn hay ray rứt mãi.
Với một không gian chật hẹp, người mua kẻ bán đông đúc, bà Tú phải vất vả lắm, tất bật ngược xuôi lắm mới may ra Nuôi đủ năm con với một chồng. Nỗi vất vả ấy, sự tất bất ấy tăng lên gấp bội khi phải kéo dài quanh năm, hết ngày lại ngày, hết năm lại năm. Sự đối lập - liên kết giữa mom sông - Quanh năm liên hội ngũ nghĩa với Eo sèo mặt nước buổi đò đông và Năm nắng mười mưa càng cho thấy rõ hơn nỗi vất vả, lam lũ cực nhọc mà bà Tú phải chịu đựng, nếm trải, đồng thời nói lên sự đảm đang, tháo vát lo toan của bà. Ông càng trở nên thương vợ cho người vợ của mình
Có hiểu được sâu sắc cái cảnh quanh năm buôn bán ở mom sông của vợ, có thực sự cảm thông và yêu thương vợ, nhà thơ mới có thể tạo nên những câu thơ đầy ân tình với những chữ nghĩa bình dị nhưng ẩn chứa ý nghĩa sâu sắc như vậy.
Ngoài nội dung trên, bài thơ Thương vợ còn có một nội dung khác. Đó là nỗi lòng của tác giả. Nhà thơ cảm thấy mình bất lực, vô tích sự, đã không đỡ đần được gì cho vợ mà bản thân lại còn trở thành một phần gánh nặng đối với vợ.Nội dung này ẩn sau cách thể hiện nội dung thứ nhất và hội tụ lại ở một từ với. Cũng như từ và, từ cùng, từ với về từ loại chỉ là từ quan hệ, dùng để nối các từ, các ngữ với nhau. Khả năng biểu đạt nghĩa của chúng hết sức thấp. Sắc thái tu từ của chúng càng thấp. Bởi vậy, thơ ca rất kị các từ quan hệ. Nhưng từ với trong bài thơ Thương vợ có một vị trí đặc biệt, có khả năng biểu đạt to lớn. Quả vậy, trong khi và, cùng nối kết các từ ngữ có quan hệ ngang hàng, đồng đẳng, tạo nên giá trị thiên về liệt kê số lượng, thì với nỗi kết các từ ngữ có quan hệ không ngang hàng, không đồng đẳng với nhau, nên nó mang nghĩa cộng thêm vào, gia tăng về lượng.
Theo đó, câu thơ” Nuôi đủ năm con với một chồng Trong cảm nhận của nhà thơ và của chúng ta là: Nuôi đủ năm con đối với bà Tú đã là một gánh nặng rồi và bây giờ lại thêm một chồng, thì cái gánh nặng biết bao nhiêu, và chắc chắn đôi vai gầy của bà Tú phải vất vả, cực nhọc nhiều lắm mới kham nổi. Thế là, chỉ bằng một từ với, nhà thơ cũng đồng thời nói rõ hơn, cụ thể hơn những vất vả, lo toan của bà Tú với gia đình, chồng con, và bộc lộ nỗi chua chát, bất lực của mình khi phải để cho vợ một mình gánh vác việc nhà, lo toan mọi bề. Qua đó, nhà thơ cảm thấy mình có lỗi với gia đình, trước hết với bà Tú. Âu chi, đó cũng là một cách nhà thơ ngầm “thú lỗi” với người vợ nhân hậu của mình.
Có đặt tình cảm và thái độ ấy vào hoàn cảnh lịch sử xã hội của nhà thơ - cái xã hội mà người phụ nữ, người vợ bị coi thường, bị chi phối bởi đạo lí tam tòng tứ đức, bởi lề giáo phong kiến nặng nề - mới thấy hết sự ân tình, đằm thắm của nhà thơ đối với vợ, mới thấy được sự hàm ơn của nhà thơ đối với bà Tú - một điều hiếm thấy trong thơ ca cổ. Khả năng biểu đạt của ngôn từ trong bài thơ Thương vợ là ở đấy. Giá trị của bài thơ cũng ở đấy.
Bài thơ có ý nghĩa rất to lớn, với giọng thơ đầy cảm xúc và trìu mến đã nói lên tâm trạng của tác giả về người vợ của mình và những khó nhọc mà gia đình đã phải trải qua.
Trên đây là toàn bộ kiến thức chúng tôi muốn chia sẻ sẽ hướng dẫn cảm nhận của anh chị về bài thơ Thương vợ, cùng học vui chúc các bạn đạt được điểm số cao!