Đăng ký

Hình ảnh mùa xuân tuổi trẻ tình yêu trong Vội Vàng- Mùa Xuân Chín bài 1

1,943 từ Văn mẫu

   Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử là hai nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới 1930-1945 nhưng mỗi người có một phong cách riêng. Nét riêng của hai nhà thơ nổi tiếng này đã được Hoài Thanh khái quát trong Thi nhân Việt Nam. Nếu Xuân Diệu được xem là nhà thơ mới nhất thì Hàn Mặc Tử được coi là nhà thơ lạ nhất trong những nhà thơ mới.

   “Nếu Xuân Diệu được xem là nhà thơ mới nhất thì Hàn Mặc Tử được coi là nhà thơ lạ nhất trong những nhà thơ mới.”

   Cả hai đều nói đến mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ nhưng mỗi người có một cách nói riêng. Điều đó thể hiện khá rõ trong hai bài thơ tiêu biểu: Vội vàng (Xuân Diệu) và 
 Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử).

   Với Xuân Diệu thì mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu gắn bó hết sức mật thiết. Trong bài thơ Vội vàng, Xuân Diệu viết: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật/ Này đây hoa của đồng nội xanh rì/ Này đây lá của cành tơ phơ phất/ Của yến anh này đây khúc tình si”… Nhà thơ đã nắm bắt được những nét đặc trưng của mùa xuân. Mùa xuân là mùa của ong bướm, cỏ cây, hoa lá…

   Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu tràn đầy sức sống. Sức sống của mùa xuân cũng chính là sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ. Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu chọn “này đây lá của cành tơ phơ phất”. “Cành tơ” là sự non tơ, gợi cho người đọc liên tưởng đến những chàng trai tơ, những cô gái tơ. Xuân Diệu rất sợ thời gian cướp mất tuổi xuân: “Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”. Nhà thơ của chúng ta hiểu một cách sâu sắc quy luật của đời người: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/ Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!”.

   Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu không chỉ gắn với tuổi trẻ mà còn gắn với tình yêu lứa đôi. Xuân Diệu là người yêu vồ vập, sôi nổi, đắm đuối. Chỉ có nhà thơ mới biết được “tuần tháng mật” của ong bướm; chỉ có nhà thơ mới nghe được “khúc tình si” của yến anh; và cũng chỉ có nhà thơ mới cảm nhận được “tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.

   Nhà thơ muốn tận hưởng vẻ đẹp của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ: “Ta muốn ôm/Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn/ Ta muốn riết mây đưa và gió lượn/ Ta muốn say cánh bướm với tình yêu/Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều/ Và non nước và cây và cỏ rạng/Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng/ Cho no nê thanh sắc của thời tươi/ – Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!”.

   Hàn Mặc Tử cũng viết về mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu nhưng không vồ vập, sôi nổi, đắm say như Xuân Diệu mà trầm tĩnh, nhẹ nhàng, sâu lắng. Mở đầu bài thơ Mùa xuân chín là khung cảnh: “Trong làn nắng ửng khói mơ tan/Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió trêu tà áo biếc/Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang”. Mùa xuân về lặng lẽ và êm ái. Âm của các từ lan, tan, vàng, sang vừa đủ để diễn tả bước đi hết sức khẽ khàng của mùa xuân. Thi sĩ cảm nhận một cách tinh tế sự biến đổi không gian. Đúng vào thời điểm “khói mơ tan” cũng là lúc “đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Từ láy “lấm tấm” làm cho màu vàng của những mái tranh cứ hiện dần lên. “Lấm tấm” còn cho ta biết “tầm nhìn xa” của thi sĩ.

   Nếu Xuân Diệu được nghe “khúc tình si” của “yến anh” thì Hàn Mặc Tử cũng nghe được “sột soạt gió trêu tà áo biết trên giàn thiên lý”. Thiên nhiên dưới con mắt của Hàn Mặc Tử cũng tình tứ lắm.

   Nếu Xuân Diệu khoe “này đây hoa của đồng nội xanh rì” thì Hàn Mặc Tử chỉ lặng lẽ tả “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Và trong cái khung cảnh mùa xuân tràn đầy sức sống đó xuất hiện “bao cô thôn nữ hát trên đồi”. Họ đang hát một cách say sưa. Thi sĩ vừa nghe, vừa nhìn, vừa cảm; “Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi/ Hổn hển như lời của nước mây/ Thầm thì với ai ngồi dưới trúc. Nghe ra ý vị và thơ ngây”. Ở đây có sự hoà hợp giữa mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu. Các cô thôn nữ tươi trẻ đang hát những bài hát về tình yêu trong một không gian mùa xuân thật thoáng đãng. Đó là mùa xuân đang xanh. Còn đây mới là cái cảnh mùa xuân chín: “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín/ Lòng trí bâng khuâng chợt nhớ làng/ Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Phải đọc đi đọc lại nhiều lần tôi mới phát hiện được những nét tương phản của hai bức tranh. Một bên “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Còn bên kia “dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Cái xanh tươi của cỏ đối lập với cái chang chang của nắng. Một bên “bao cô thôn nữ hát trên đồi”. Còn bên kia “chị ấy năm nay còn gánh thóc”. Cô và chị, bao cô và chị ấy, hát trên đồi và gánh thóc dọc bờ sông. Một bên còn xuân xanh, một bên đã qua thời tuổi trẻ. Bên thì đông vui, bên thì lặng lẽ một mình. Từ hình ảnh “Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang” mà Hàn Mặc Tử ngậm ngùi cho bao cô thôn nữ ở trên kia: “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi!”. Đó là quy luật không ai có thể cưỡng được. Thi sĩ biết vậy mà vẫn tiếc thầm cho họ và cả thầm tiếc cho mình, tiếc cho cái tuổi thanh xuân một đi không bao giờ trở lại.

   Rõ ràng cùng viết về mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu nhưng Vội vàng của Xuân Diệu và Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử có những cách thể hiện khác nhau. Mỗi cách thể hiện có cái hay riêng. Tôi thích sự vồ vập, sôi nổi, đắm say của Xuân Diệu nhưng tôi cũng không thích sự trầm tĩnh, nhẹ nhàng, sâu lắng của Hàn Mặc Tử. Tôi thích những cái mới trong thơ Xuân Diệu nhưng tôi cũng thích những cái lạ trong thơ Hàn Mặc Tử. Chính cá tính sáng tạo làm nên nét riêng độc đáo riêng của từng nhà thơ. Nói như đại thi hào Nguyễn Du “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”. Nhưng dù viết theo phong cách nào, trường phái nào thì cái đích cuối cùng của nhà thơ là làm được những bài thơ hay, vượt qua sự sáng lọc khắt khe của thời gian như Vội vàng và Mùa xuân chín.