Đăng ký

Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

3,654 từ Phân tích
Đề bài

Đề bài: Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Hướng dẫn giải

   Có lẽ danh xưng “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” mà nhà phê bình Hoài Thanh đã đặt cho Xuân Diệu sẽ không ai có thể thay thế. Xuân Diệu quả thực mang đến cho thơ ca thuở ấy, những năm 30 của thế kỉ XX, những điều vô cùng mới mẻ. Từ nguồn sống dạt dào hay quan niệm sống, quan niệm về tình yêu, tuổi trẻ… đến những hình thức nghệ thuật, đều hiện đại và có những cách tân mạnh mẽ, táo bạo. Sự ghi nhận ấy lại không phải chỉ ở một bài thơ mà cả một tập thơ, thậm chí nhiều tập thơ của ông được sáng tác trước Cách mạng tháng Tám, 1945. Trong đó phải kể đến tập thơ đầu tay Thơ Thơ, được in vào năm 1938, với thi phẩm Vội vàng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật cả đời thơ Xuân Diệu.

   Vội vàng ra đời vào năm 1938, lúc mà phong trào thơ mới đang phát triển ở đỉnh cao. Sở dĩ đây được coi là bài thơ xếp vào hàng hay nhất của Xuân Diệu, bởi nó không chỉ mang theo những hơi thở mới mẻ, hiện đại mà còn thể hiện một cái tôi đầy ý nghĩa nhân sinh cao đẹp. “Vội vàng” không phải là một trạng thái là một thái độ sống gấp gáp, nhanh chóng. Bài thơ được viết bằng thể thơ tự do, gồm một câu đề từ Tặng Vũ Đình Liên và bốn khổ thơ với dung lượng khác nhau. Tuy nhiên người đọc nhận ra được mạch cảm xúc chủ đạo chính là một cái tôi yêu đời tha thiết, đắm say, cuồng nhiên nhưng vẫn đầy lo sợ trước sự trôi chảy vô tình, nghiệt ngã của thời gian. Cấu tứ bài thơ vì vậy trở thành một cuộc tranh biện say mê của nhà thơ trước cuộc đời.

    Tôi muốn tắt nắng đi

    Cho màu đừng nhạt mất.

    Tôi muốn buộc gió lại

    Cho hương đừng bay đi.

   Dễ nhận thấy cấu tứ của bài thơ được đặt ở ngay bốn dòng thơ năm chữ mở đầu. Xuân Diệu đã bắt nhịp Vội vàng bằng hai ước muốn: tắt nắng, buộc gió. Ấy là quy luật của tạo hóa, tự nhiên mà con người chúng ta không thể can thiệp hay tước đoạt được. Vậy mà điệp ngữ Tôi muốn…, tôi muốn… lặp lại đến hai lần, như thể đó là một niềm khao khát mãnh liệt đến nỗi ngông cuồng, phi lí. Nhưng khi biết mục đích của nhân vật trữ tình thì người đọc nhận ra việc tắt nắng, buộc gió ấy là để giữ màu đừng nhạt, giữ hương đừng bay. Đó chẳng phải là muốn ngưng đọng thời gian, muốn mọi thứ ngừng trôi chảy để tôi có thể đắm chìm, mãi mãi sống với hương sắc của cuộc đời hay sao? Hóa ra cái tôi ấy yêu cuộc sống này vô cùng mãnh liệt, nhưng dường như cũng có điều lo sợ nó vụt trôi đi mất. Bởi vậy, cấu tứ bài thơ từ đây được vận động theo hai cảm xúc ấy và cũng chính là lý do để “tuyên ngôn” về lẽ sống vội vàng.

   Tôi muốn tắt nắng, buộc gió ư? Chắc chắn cuộc đời này phải tươi đẹp lắm thì thi nhân mới thèm khát ngưng đọng mọi thứ như vậy. Chỉ cần bước sang khổ thứ hai, chúng ta sẽ thấy được sự lí giải về điều đó. Thay đổi sự dồn nén cảm xúc ở bốn dòng thơ đầu, khổ thơ thứ hai trải dài hơn với thể thơ tám chữ, giọng điệu có phần tha thiết, sôi nổi:

    Của ong bướm này đây tuần tháng mật

   

    Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

   Điệp từ của, này đây vừa có nét hiện đại vừa như một lời mời chào, vẫy gọi để chúng ta cùng bước vào thế giới tươi đẹp của thiên nhiên cuộc sống. Bằng thủ pháp liệt kê ông dẫn dắt người đọc vào thế giới bằng những hình ảnh vô cùng giản dị, gần gũi nhưng lại ẩn chứa những nét đẹp mà chúng ta vô tình chẳng nhận ra. Những ong bướm,hoa đồng nội, lá cành tơ, yến anh, ánh sáng, buổi sớm, tháng giêng có gì mà xa lạ, nhưng dưới cặp mắt “xanh non, biếc rờn”, qua lăng kính của tình yêu và cảm nhận bằng mọi giác quan, nhà thơ đã mang tới một khung cảnh tuyệt diệu của thiên nhiên, cuộc sống. Những thứ quen thuộc ấy lại ở trong những trạng thái mơn mởn, tươi non, căng tràn sức sống và tràn ngập xuân tình nhất: ong bướm tuần tháng mật, hoa đồng nội xanh rì, lá cành tơ phơ phất, yến anh khúc tình si, ánh sáng chớp hàng mi, tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Một niềm yêu đời tha thiết, mãnh liệt đã khiến nhà thơ phát hiện ra một bữa tiệc ở giữa trần gian, chốn thiên đường ở ngay trên mặt đất. Tính triết lý nhân sinh cũng bởi vậy bộc lộ ngay ở sự khám phá này. Đâu phải đi đâu xa, đâu phải đến những nơi nào có cảnh đẹp, cũng đâu phải chỉ có chốn bồng lai tiên cảnh mới được thưởng thức cái đẹp như thế, chỉ cần căng đôi mắt, căng đôi tai, căng cả trái tim, sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn thì “thiên đường” ở ngay trước mắt. Thời khắc mà mỗi chúng ta cần tận hưởng là mùa xuân của tự nhiên, là tuổi trẻ, tình yêu của cuộc đời, xin đừng bỏ lỡ. Đó chính là lý do vì sao mà ông muốn “tắt nắng, buộc gió”!

   Nhưng tôi đâu chỉ yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống mà còn yêu con người. Và tình yêu với con người ấy đã giúp nhà thơ đưa ra một quan điểm thẩm mĩ rất độc đáo. Vốn dĩ xưa thiên nhiên mới là chuẩn mực của cái đẹp, nhưng nay Xuân Diệu lại lấy con người mới là thước đo của mọi cái đẹp. Bằng việc so sánh: Ánh sáng chớp hàng mi/ tháng giêng ngon như một cặp môi gần, người đọc nhận ra sự khác lạ ấy. Ánh sáng, một thứ thuộc về tự nhiên, giờ đây được ví như cái chớp mắt của một nàng thiếu nữ; tháng giêng cũng được mĩ vị hóa “ngon” như một cặp môi gần của đôi tình nhân. Xuân Diệu thực sự đã tạo nên một quan niệm về cái đẹp nhưng đầy tính nhân văn, có ý nghĩa nhân sinh cao đẹp. Phải chăng với thi nhân, con người mới là điều tuyệt diệu, là sản phẩm tuyệt vời nhất của tạo hóa?

   Thiên nhiên đẹp, cuộc sống đẹp, con người đẹp… vậy mà đời người chẳng thể mãi mà gắn bó được. Nên:

    Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa,

    Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

   Đúng, cuộc đời như thế sao mà không sung sướng cho được. Nhưng không thể “tắt nắng, buộc gió” mà mãi đắm chìm trong ấy, nên mới phải vội vàng. Câu thơ với dấu chấm giữa dòng làm ngắt mạnh cảm xúc, muốn níu giữ tất cả chỉ còn cách sống vội vàng từng giây từng phút. Nhân vật trữ tình chẳng chờ tới mùa hạ, mà ngay ở mùa xuân thôi cũng đã thấy nhớ mùa xuân rồi. Đọng lại cả khổ thơ vẫn là niềm yêu thương cuộc sống rất sục sôi, rạo rực. Đâu đó chúng ta nhận ra ánh mắt sung sướng nhưng đầy gấp gáp của thi nhân để chạy đua với thời gian. Bởi không nhanh sẽ không kịp và không thể để tận hưởng cuộc sống này.

    Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua

   

    Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa.

   Khổ thơ mở ra một cuộc tranh biện vô cùng độc đáo, thời gian có thực sự đang trôi chảy, có thực sự nghiệt ngã mà cuốn phăng mọi thứ ra đi? Bằng nghệ thuật đối lập (xuân non – xuân già, tới – qua, rộng – chật, tuần hoàn – chẳng hai lần…) và hàng loạt các từ ngữ có tính tranh luận cao như: nghĩa là, nhưng, nói làm chi, nếu, nên, nhà thơ đã chỉ ra quy luật tuyến tính của thời gian: một đi không trở lại. Ông say sưa trong giọng điệu trầm buồn, có phần run rẩy. Làm gì có kiểu thời gian như “bóng bích câu qua cửa sổ”, cũng làm gì có kiểu chết đi rồi sẽ lại được tái sinh, mà thời gian nghiệt ngã, vô tình lắm. Mỗi phút giây trôi đi sẽ là mất mát. Có thể thời gian của tự nhiên là vô hạn, nhưng đời người lại hữu hạn, mà tuổi trẻ lại càng ngắn ngủi, ít ỏi vô cùng. Quan niệm về thời gian như thế của Xuân Diệu không hề cảm tính, cũng không theo lối thi vị hóa mà đầy khách quan và biện chứng. Chỉ có thể là một tâm hồn quá nhạy cảm, quá yêu đời mới lo lắng, sợ sệt như thế trước quy luật của thời gian. Bởi vậy cho nên ông nhìn đâu cũng thấy chia lìa, tan nát. Những hình ảnh thiên nhiên, sự sống được nhân hóa: mùi tháng năm rớm vị chia phôi, núi sông than thầm tiễn biệt, con gió xinh thì thào, hờn dỗi phải bay đi, chim ngập ngừng đứt tiếng reo thi trước độ phai tàn sắp sửa là những dự cảm đầy mất mát, có phần bi thương trước sự trôi chảy của thời gian. Đâu đâu cũng ngấm mùi, ngấm vị của sự tan tác, đứt gãy, xa rời. Bởi vậy sao mà không cảm thấy tiếc nuối, thấy hụt hẫng, bâng khuâng cho được. Lời thơ vang lên như một niềm bi phẫn, bế tắc: chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa! Xuân Diệu hiện thực thế, đời thường thế… nhưng cũng không tránh khỏi được sự sợ hãi, bàng hoàng trước thời gian. Vậy nếu không “tắt nắng”, không “buộc gió” thì phải làm sao để màu không nhạt, hương không bay? Chỉ còn cách vội vàng để chống lại quy luật khắc nghiệt ấy của thời gian mà thôi.

   Vội vàng thực sự là một bài thơ của nhiều cảm xúc. Có chút dồn nén ở khổ đầu, có cái tha thiết, say mê ở khổ hai, có cái day dứt, bâng khuâng ở khổ ba và ở khổ bốn sẽ là sự sục sôi, khí thế, nhiệt huyết. Sự linh hoạt trong cách bộc lộ cảm xúc của bài thơ đều bắt nguồn từ triết lý sống vội vàng. Không thể níu giữ thời gian, cũng không thể đứng im mà nhìn thời gian tàn phá mọi thứ, chỉ còn cách vội vàng. Cho nên khổ cuối mở ra một lời giục giã đầy hối hả:

    Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.

   

    -Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi.

   Đi tức là sống, mà phải mau đi tức là sống nhanh lên, gấp gáp lên khi mùa chưa ngả chiều hôm, khi mọi thứ còn ở độ tươi đẹp nhất, trẻ trung nhất. Xuân Diệu giục người ta như thế. Giờ đây không còn là tôi muốn là khát vọng của cá nhân, mà là ta muốn, tức là của tất cả mọi người. Ta muốn ôm, riết, say, thâu, thậm chí là cắn để chếnh choáng, đã đầy, no nê mọi thứ của cuộc sống này. Hàng loạt các động từ mạnh theo cấp độ tăng tiến đã diễn tả vừa là cách sống vừa là cảm xúc có phần khó kiềm chế được của nhân vật trữ tình. Xuân Diệu mang tới một cách sống vội vàng thật sục sôi, mãnh liệt, vồ vập và hết mình. Nhưng thi nhân cũng không cho rằng chúng ta lúc nào cũng phải căng lên để sống như vậy, mà cần phải biết sống vội vàng vào đúng thời điểm. Đó là lúc sự sống mới bắt đầu mơn mởn, lúc mây đưa và gió lượn, cánh bướm với tình yêu, một cái hôn nhiều, và non nước và cây và cỏ rạng… và đặc biệt là xuân hồng. Nhà thơ chọn những khoảnh khắc ấy chính là lúc mỗi chúng ta đáng sống nhất, sống hết mình, nhiệt huyết nhất để không bỏ lỡ một chút vẻ đẹp nào của cuộc sống. Hình ảnh xuân hồng chính là biểu tượng cho cuộc sống như thế, mà nhà thơ không ngần ngại sử dụng từ ngữ có phần khá thô để biểu đạt là cắn. Nhưng ai cũng hiểu, với Xuân Diệu sự tham lam, cuồng nhiệt đến mê dại với cuộc sống thì ngay cả từ ngữ ấy cũng chưa đủ để diễn tả cảm xúc yêu cuộc sống của ông.

   Vội vàng khép lại với một hình ảnh, nhân vật trữ tình đang muốn thỏa mãn với cảm giác yêu đời của mình. Đó cũng là một ấn tượng đặc biệt mà bài thơ để lại trong lòng độc giả. Dẫu trong bài vẫn có một niềm day dứt, lo âu trước sự trôi chảy của thời gian nhưng người ta không thấy bài thơ dừng lại bằng một cảnh tượng bi quan, chán nản. Ngược lại, nỗi gieo vui ở cả khổ cuối cùng cho thấy, Xuân Diệu vẫn vô cùng yêu đời, trân trọng cuộc sống và lạc quan với những phút giây của thực tại. Bởi vậy, Vội vàng ra đời ở vào thời điểm ấy, nỗi băn khoăn về cuộc sống trong thơ ca vẫn nhiều, nhưng ý nghĩa của bài thơ về quan niệm sống, quan niệm cuộc đời, tuổi trẻ, tình yêu và cả sự nhiệt huyết, hết mình với cuộc sống vẫn còn nguyên vẹn giá trị mãi mãi sau này.