Đăng ký

Cảm nhận về người thầy giáo trong xã hội xưa và nay

I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
... Sáng nào bom Mỹ dội
Phượng đổ ngổn ngang, mái trường tốc ngói 
Mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi 
Thầy cầm súng ra đi 
Bài tập dạy chúng em dang dở
Hoa phượng
Hoa phượng cháy một góc trời như lửa
Năm nay thầy trở về 
Nụ cười vẫn nguyên vẹn như xưa 
Nhưng một bàn chân không còn nữa 
Ôi bàn chân
In lên cổng trường những chiều giá buốt 
In lên cổng trường những đêm mưa dầm 
Dấu nặng hai bên như hai hàng lỗ đáo 
Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo 
Như nhận ra cái chưa hoàn hảo 
Của cuộc đời mình.
 (Trích Bàn chân thầy giáo - Trần Đăng Khoa, Góc sân và khoảng trời, NXB Văn học, Hà Nội, 2009) Câu 1: Văn bản gợi cho anh (chị) liên tưởng tới ca khúc nào cũng viết về người thầy giáo thương binh của nhạc sĩ Trần Tiến?
Câu 2: Chỉ ra giai đoạn lịch sử được phản ánh trong đoạn thơ?
Câu 3: Xác định và chỉ ra giá trị của biện pháp tu từ được tác giả sử dụng trong những câu thơ sau?
Ôi bàn chân in lên cổng trường những chiều giá buốt 
In lên cổng trường những đêm mưa dầm
Câu 4: Bằng nhận thức của bản thân anh (chị) hãy cắt nghĩa để làm sáng tỏ thêm ý thơ:
Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo 
Như nhận ra cái chưa hoàn hảo
Của cuộc đời mình...
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận của anh/chị về người thầy giáo trong xã hội xưa và nay?
Câu 2 (5,0 điểm): Phân tích nhân vật cụ Mết trong truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) và nhân vật chú Năm trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) để thấy rõ vai trò của sự tiếp nối những giá trị truyền thống.

B. HƯỚNG DẪN
I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)
STUDY TIP
Với câu hỏi về giai đoạn lịch sử học sinh cần căn cứ vào một số yếu tố: nhan đề; nội dung văn bản; nhận diện qua những từ khóa; thông tin về năm sáng tác, liên hệ với những hiểu biết của bản thân để trả lời, cắt nghĩa.
Câu 1 (0,5 điểm):
Văn bản gợi liên tưởng tới ca khúc “Vết chân tròn trên cát” viết về hình ảnh người thầy giáo thương binh của nhạc sĩ Trần Tiến.
Câu 2 (0,5 điểm):
Đoạn thơ phản ánh giai đoạn lịch sử thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước - giai đoạn lịch sử cam go, thử thách, đòi hỏi lòng kiên trì, ý chí quyết tâm.
Câu 3 (1,0 điểm):
Biện pháp tu từ được sử dụng:
-      Điệp ngữ (in lên cổng trường...)
-       Giá trị của biện pháp tu từ: Nhấn mạnh, tạo ấn tượng sâu sắc về hình ảnh đôi bàn chân của người thầy trờ về sau cuộc chiến tranh (có thể diễn đạt theo cách khác nhưng đảm bảo hợp lí, thuyết phục).
Câu 4 (1,0 điểm):
Học sinh có thể đưa ra ý nghĩa của đoạn thơ theo quan điểm của bản thân, đảm bảo tính hợp lí, thuyết phục.
Gợi ý:
-      Đoạn thơ thể hiện tình cảm trân trọng, kính yêu sâu sắc và sự ngưỡng mộ về ý chí, nghị lực của tác giả đối với người thầy giáo thương binh.
-       Bài học nhận thức về ý thức sống: Sống gắn liền với cống hiến.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm):
Câu 1 (2,0 điểm):
STUDY TIP
Đây là dạng bài nghị luận về một vấn đề xã hội, học sinh cần kết hợp kiến thức trên sách vở và hiểu biết thực tế để trả lời đặc biệt những kiến thức trong lịch sử văn hóa, xã hội của dân tộc với truyền thống tôn sư trọng đạo.
1. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn (0,25 điểm)
Có thể trình bày đoạn văn theo nhiều cách: diễn dịch, quy nạp, móc xích, song hành...
2.       Xác định đúng vấn đề cần nghị luận(0,25 điểm):
Trình bày nhận thức của bản thân về tình thầy - trò trong xã hội xưa và nay.
3.       Triển khai vấn đề nghị luận (1,0 điểm):
Có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng cần làm rõ được suy nghĩ về tình thầy - trò trong xã hội xưa và nay. Tham khảo các gợi ý sau:
-      Đặt vấn đề: “Tôn sư trọng đạo” là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Từ ngàn đời vẫn được lưu truyền gìn giữ...
-       Triển khai vấn đề:

Người thầy trong xã hội xưa
+ Là người hiểu biết rộng do đọc sách nho giáo và thướng sống rất mực thước theo cốt cách nhà nho và trở thành tấm gương đạo đức cho học trò noi theo;
+ Là người “duy nhất” truyền đạt kiến thức trực tiếp cho trò nên học sinh cũng gần như phụ thuộc hoàn toàn vào kiến thức của thầy.
+ Là người bề trên. Học trò phải tuân theo mọi yêu cầu, mệnh lệnh của thầy. Thầy có thể trừng phạt trò nghiêm khắc, thậm chí đánh phạt học trò nhưng cha mẹ không dám phản đối mà có nhiều bậc cha mẹ lại rất biết ơn thầy đã nghiêm khắc giáo dục con cái họ thành người có ích sau này.
+ Thầy đồ xưa thường rất gần gũi với nhân dân vì nhiều người trong số họ cũng xuất thân từ giai cấp lao động nghèo.
+ Xã hội xưa để thành danh duy nhất chỉ có một con đường khoa cử. Nhờ có thầy dạy dỗ chữ mà học trò mới có thể thi đỗ ra làm quan có địa vị xã hội và có cuộc sống vinh hoa phú quý và mang lại vinh dự cho cả gia đình và dòng họ hay cả làng xã nơi họ sinh ra. Do đó, những học sinh dù có đỗ đạt hơn vẫn biết ơn và kính trọng thầy giáo cũ của mình. Vào dịp lễ, tết, họ thường tự nguyện mang đồ lễ đến để tỏ lòng biết ơn thầy.
Mối quan hệ gắn bó, khăng khít; người thầy dạy học xưa được cả xã hội kính trọng, kính nể.
Người thầy trong xã hội nay
+ Người thầy là người hiểu biết, có vốn kiến thức, có kỹ năng sư phạm, tấm gương sáng; nhưng người thầy sẽ là người trợ giúp cho học sinh lĩnh hội tri thức và không còn là người “độc quyền” truyền đạt kiến thức cho học sinh nữa. Học sinh sẽ tự mình chủ động tiếp thu kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau như sách báo, Internet. Học sinh sẽ có quyền đánh giá thầy và quyền chọn thầy cô hướng dẫn mình.
+ Ảnh hưởng của kinh tế thị trường, một số thầy cô bị tha hóa, xuống cấp về đạo đức, lối sống. Thậm chí nhiều thầy cô xúc phạm nhân phẩm, đánh đập học sinh, bị dư luận lên án. Tất cả những điều đó đã làm xấu đi hình ảnh người thầy, người cô mẫu mực, mô phạm một thời của nghành giáo dục.
Mối quan hệ thầy - trò bình đẳng, gần gũi, tôn trọng.
- Kết thúc vấn đề: Một quy luật tất yếu là quan hệ thầy trò sớm hay muộn sẽ thay đổi khi xã hội và nền giáo dục chúng ta thay đổi sâu sắc. Nhưng suy cho cùng nếu thầy ra thầy, thì người thầy vẫn được trò kính trọng, quý mến (trừ số trò rất cá biệt) và được phụ huynh học sinh, được những người công tác trong các nghành khác tôn trọng.
4.       Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm):
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa Tiếng Việt.
5.       Sáng tạo (0,25 điểm):
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Có thể bạn quan tâm: Tổng hợp các dạng viết đoạn văn NLXH
Câu 2 (5,0 điểm)
1. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận (0,25 điểm):
Trình bày đầy đủ các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài. Phần Mở bài biết dẫn dắt hợp lí và nêu được vấn đề; phần Thân bài biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề; phần Kết bài khái quát được vấn đề và thể hiện được nhận thức của cá nhân.
2.       Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm):
Vẻ đẹp của nhân vật cụ Mết trong truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) và nhân vật chú Năm trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) để thấy rõ vai trò của sự tiếp nối những giá trị truyền thống.
3.       Triển khai vấn đề nghị luận:
STUDY TIP
Hướng triển khai:
- Phân tích những nét riêng đặc trưng của từng nhân vật trong các điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của dân tộc
+ Cụ Mết - già làng, cây xà nu của dân làng Xô - Man trong những buổi đầu chống Pháp;
+ Chú Năm - khúc thượng nguồn trong dòng sông truyền thống của gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước đánh giặc ngoại xâm
-       Chỉ ra những điểm chung của hai nhân vật:
+ Họ đều là những con người đại diện cho truyền thống tốt đẹp của dân tộc: yêu nước, chống ngoại xâm, kinh nghiệm sống trong các thời kỳ lịch sử;
+ Họ là linh hồn của cuộc sống giữa người giữ lửa, truyền lửa để làm nên mạch ngầm truyền thống;
-       Thái độ trân trọng, đối với quá khứ, nguồn cội; lay thức ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ cần viết tiếp truyền thống cha ông.
Cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp dẫn chứng và lí lẽ.
a.       Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm (0,25 điểm):
-       Khái quát về tác phẩm:
+ Nguyễn Trung Thành từng có thời gian dài hoạt động ở Tây Nguyên. Những năm tháng lăn lộn trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Liên Khu V đã giúp ông hiểu sâu sắc về Tây Nguyên có gắn bó mật thiết và có duyên nợ với mảnh đất và con người Tây Nguyên từ đó rất nhiều tác phẩm thành công về mảnh đất, con người Tây Nguyên được xuất bản. Truyện ngắn Rừng xà nu ra đời năm 1965, in trong tập Trên quên hương những anh hùng Điện Ngọc, được viết trong bối cảnh khi đế quốc mĩ bắt đầu đổ bộ ào ạt vào miền Nam. Đây là câu truyện kể về cuộc nổi dạy của dân làng Xô - Man.
+ Nguyễn Thi quê ở miền Bắc nhưng đã gắn bó rất sâu nặng với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu “Nhà văn của người nông dân Nam Bộ” trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Những đứa con trong gia đình được sáng tác ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng. Truyện ngắn tái hiện lại một dòng sông truyền thống trong lịch sử đấu tranh của một gia đình nông dân ở Nam Bộ. Đây là câu chuyện kể về một gia đình nông dân Nam Bộ giàu truyền thống yêu nước và cách mạng.
b.       Nhận xét khái quát về hai nhân vật (0,25 điểm)
-       Nhân vật cụ Mết (Rừng xà nu) và chú Năm (Những đứa con trong gia đình) tuy được đặt trong những bối cảnh khác nhau nhưng ở họ toát lên vẻ cương nghị, chất phát. Họ chính là nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện đại, người lưu giữ truyền thống và là điểm tựa của tương lai, là pho lịch sử sống của dân tộc, đất nước.
c.            Có thể trình bầy theo nhiều cách nhưng cơ bản, cần đáp ứng những nội dung sau (2,5 điểm):
-       Nhân vật cụ Mết
+ Tuy không được miêu tả thật nhiều nhưng cụ Mết là một trong những nhân vật rất quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được xây dựng với vai trò người kể truyện và phát ngôn tư tưởng của nhà văn trong tác phẩm.
+ Nói về nhân vật cụ Mết, Nguyễn Trung Thành từng viết: “ông là cội nguồn, là Tây Nguyên của một thời đất nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay”. Có thể thấy hình tượng cụ Mết mang dáng hình anh hùng Núp - người con ưu tú thời kháng chiến chống Pháp được nhà văn khắc họa trong tác phẩm Đất nước đứng lên. Cũng như Tnú, cụ đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất anh hùng của người dân Xô - Man trong kháng chiến gian khổ.
+ Những nét nổi bật về ngoại hình:
++ Cụ Mết không xuất hiện ở ngay đầu tác phẩm nhưng sự xuất hiện của cụ qua ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành cũng thực sự để lại những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc. “Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một kìm sắt... Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng!... ngực căng như một cây xà nu lớn.”
++ Cụ Mết hiện lên với một thân hình khoẻ mạnh, hùng tráng; mang dáng dấp của một già làng trí tuệ, tinh nhanh và uy cường. Cụ Mết là sức mạnh của núi rừng Tây Nguyên.
++ Cụ Mết hiện thân cho truyền thống thiêng liêng, biểu tường cho sức mạnh dân tộc của các đồng bào vùng Tây Nguyên, là niềm tự hào của cộng đồng dân làng Xô - Man. Tiếng nói của cụ là tiếng của cội nguồn, của núi rừng, của lịch sử, lời nói của cụ là sấm truyền sử thi, lời phán quyết của lịch sử, là sức mạnh hào hùng của thời đại.
+ Vẻ đẹp tâm hồn:
++ Cụ Mết là một già làng trầm tính, kín đào, uy nghi: Là người đứng đầu bản, cụ được người Xô - Man từ bé đến già yêu mến, kính trọng. Tiếng nói của cụ ồ ồ vang dội trong lồng ngực như âm vang của núi rừng, như lời phán truyền của lịch sử, quá khứ. Cách nói của cụ như ra lệnh, ngôn ngữ giản dị mà dứt khoát thể hiện sự quyết đoán của người đứng đầu. Mỗi khi cụ cất lời cả dân làng đều im lặng, lũ trẻ con như nuốt lấy từng lời. Hầu như nét nào ở cụ Mết cũng đặc biệt, cụ không bao giờ khen giỏi, khen tốt, khi vừa ý nhất cụ chỉ nói “Được”. Mệnh lệnh chiến đấu phát ra chắc nịch đó được thể hiện trong đêm Tnú bị giặc đốt mười ngón tay. Tiếng hô vang “Chém! Chém hết!” của cụ như tiếng sấm bên tai không chỉ thúc giục tinh thần trong mỗi người xông lên cứu Tnú, mà còn phần nào đã khiến cho bọn thằng Dục bị đòn bất ngờ và có phần khiếp sợ. Nhưng cũng có lúc giọng cụ Mết cũng thật đầm ấm, trang nghiêm, linh thiêng như một huyền thoại - đó là khi cụ Mết kể về câu truyện của Tnú cho dân làng Xô - Man. Mọi người vây quanh đống lửa trong không gian của nhà ưng và nghe cụ kể về Tnú với “tiếng nói rất trầm”
++ Người giàu tình yêu thương:
+++ Là già làng, trưởng bản, cụ luôn yêu thương, quan tâm, chia sẻ với tất cả mọi người bằng tấm lòng nhường nhịn và san sẻ. Khi Dít đi dự hội nghị chiến sĩ thi đua được thưởng muối dành phần biết cụ nhưng cụ không ăn mà để phần cho người già và người ốm. Đặc biệt cụ hết mực thương yêu Tnú, người con mồ côi, trung thực và anh hùng của Xô - Man. Khi Tnú về thăm làng một đêm, cụ đón anh về nhà tiếp đãi chu đáo.
+++ Cụ luôn tự hào về vẻ đẹp và truyền thống của bản làng Xô - Man. Theo cụ “gạo của người Strá là ngon nhất núi rừng. không cây nào mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Niềm kiêu hãnh về vẻ đẹp quê hương làm sang trọng vẻ đẹp tâm hồn của cụ Mết. Vì tự hào vẻ đẹp truyền thống của bản làng nên cụ luôn lấy truyền thống Xô - Man để giáo dục con cháu.
++ Cụ ca ngợi tính cách trung thực của Tnú “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Trong đêm mưa rừng Tây Nguyên, giữa nhà rông, bên ánh lửa xà nu cụ kể lại cuộc đời bị tráng của Tnú cho thế hệ con cháu kế tiếp nghe. Cụ nhắc nhở: “Nhớ lấy, ghi lấy sau này tau chết chúng bay kể cho con cháu chúng bay nghe”. Cụ là nhịp cầu kết nối quá khứ và hiện tại, mang trong mình sức mạnh của truyền thống cộng đồng. Cụ rất mực yêu thương và đặt niềm tin vào thế hệ kế cận tiếp theo như: Tnú, Mai, Dít, bé Heng,... Trong niềm tự hào về Xô - Man, có lẽ niềm tự hào lớn nhất của cụ chính là tự hào về những đứa con ưu tú của buôn làng.
++ Người một lòng tin tưởng vào đường lối cách mạng của Đảng:
+++ Trong mối quan hệ với Đảng và cách mạng cụ Mết càng là sợi dây gắn kết dân làng với lí tưởng, chỉ dẫn của Đảng, bởi cụ luôn có niềm tin sâu sắc vào những đường lối của Đảng, tinh thần này càng được giáo dục một cách nghiêm khắc cho đám đông làng Xô - Man để khắc cốt ghi tâm. Đã có lần cụ từng khẳng định niềm tin ấy: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Nhưng quan trọng hơn là cụ Mết đã đưa chân lí đó vào thực tiễn của cuộc đấu tranh chống bọn đế quốc Mĩ bằng những chân lí giản dị:”Nhớ lấy, ghi lấy sau này tao chết rồi, bay còn sống kể lại cho con cháu: Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo!”. Nhờ vào ý thức luôn giáo dục truyền thống vẻ vang của làng cho các thế hệ tiếp cận đó mà dân làng Xô - Man giữ được truyền thống kiên cường bất khuất, khả năng giữ bí mật tuyệt đối, để làng Xô - Man mãi tự hào trong suốt 5 năm kháng chiến chưa có cán bộ nào bị giặc bắt hay bị giết trong cánh rừng xà nu này.
+++ Cụ Mết có niềm tin sâu sắc vào Đảng là nhờ vào sự am hiểu tường tận và rành rọt đường lối kháng chiến. Không chỉ là phương châm kháng chiến lấy bạo lực cách mạng để đập tan bạp lực phản cách mạng (chúng nó đã cầm sứng, mình phải cầm giáo) mà đặc biệt hơn cụ còn am hiểu về cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc: ” đánh thằng Mĩ phải đánh lâu dài”. Ngoài ra, qua ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành ta còn thấy được tính kỉ luật cao trong con người cụ Mết qua cách chỉ huy dân làng khi trốn vào rừng lánh giặc chờ đợi thời cơ tiến hành khởi nghĩa: “thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông”. Chính vì thế cụ Mết được nhà văn miêu tả với hình tượng cây xà nu đại thụ trong rừng xà nu, luôm là bóng lớn cho dân làng Xô - Man chống bọn Mĩ nguỵ, góp phần vào sự thành công của cuộc cách mạng trong cả nước.
+++ Cụ Mết không phải là nhân vật chính trong ý đồ miêu tả của nhà văn nhưng qua tác phẩm ta cũng thấy được vai trò to lớn của cụ Mết trong việc tô đậm hình tượng nhân vật Tnú với lối kể chuyện lồng trong truyện, qua chuyện một đêm mà dài như cả đời người ở làng Xô - Man. lình ảnh cụ Mết tuy ít xuất hiện nhưng những gì nhà văn miêu tả về người già làng một lòng tin theo Đảng, tin tưởng cách mạng càng làm tăng thêm giá trị cho tác phẩm Rừng xà nu để nó có sức âm vang tới hôm nay và mai sau. Trong lòng bạn độc cụ Mết mãi là hình tượng bất từ của cây xà nu đại thụ vươn sức bảo vệ cho thế hệ trẻ phát triển, để thực hiện thắng lợi công cuộc giải phóng dân tộc.
- Nhân vật chú Năm:
+ Nhân vật chú Năm không phải nhân vật chính nhưng góp phần quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc hoạ qua dòng hổi tưởng của nhân vật Việt và là đối tượng để thông qua đó, Nguyễn Thi gửi gắm những tư tưởng của mình.
+ Chú Năm là người nông dân Nam Bộ yêu lao động, sống gắn bó với quê hương, đồng ruộng
++ Theo dòng hồi ức của Việt, chú Năm được nhắc tới là “người đi đây đi đó nhiều, ham sông ham biển”; dấu tích cuộc đời trải qua bom đạn còn hằn rõ qua chi tiết “Bả vai chú còn một đầu đạn của thằng Tây hồi chín năm”... Cuộc sống trải nghiệm giúp chú trở thành người hiểu rộng, biết nhiều.
++ Lòng yêu quê hương, xứ sở của chú Năm được thể hiện qua giọng hò đặc biệt của chú. Trong con người chú có sự hoà quyện đến lạ lùng giữa chất nông dân thuần hậu với chất tài tử, nghệ sĩ, chính vì vậy mà nhà văn dành nhiều ưu ái khi miêu tả chi tiết giọng hò của chú Năm. Chú Năm không hay hò bởi chú đã già, giọng chú đục và tức như gà gáy. Chú chỉ hò khi kể lại sự tích của gia đình, cuối câu chuyện thế nào chú cũng hò mấy câu nói về cuộc đời cay cực của chú. Qua giọng hò, chú muốn nhắc Việt và Chiến về cội nguồn, về những truyền thống đấu tranh anh dũng của gia đình và chú muốn hai chị em khắc sâu vào trí nhớ. Khi thấy Chiến và Việt đã đủ lớn, đủ sức gánh vác việc gia đình và cách mạng thì: “câu hò của chú Năm nổi lên giữa ban ngày, cất lên như hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, kéo dài từng tiếng một rồi vỡ ra, nhắn nhủ tha thiết cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội”. Giọng hò của chú chứa đựng bầu nhiệt huyết, lời kêu gọi thế hệ trẻ lên đường đánh Mĩ cứu nước, nhắc họ hướng về gia đình, quê hương.
+ Chú Năm là con người có tình cảm đôn hậu, luôn tự hào về truyền thống của gia đình mình.
++ Bên cạnh giọng hò tha thiết chú Năm còn là người lưu giữ cuốn sổ ghi chép của gia đình - là cuốn gia phả không đơn thuần ghi lại các thế hệ của gia đình mà nơi đó còn lưu lại những chứng tích và nỗi đau của gia đình. Nó không chỉ có ý nghĩa là một cuốn gia phả mà nó còn là tấm bia ghi món nợ máu với bọn đế quốc. Chú Năm ghi chép cuốn sổ với một sứ mệnh đặc biệt. Chú quý cuốn sổ như báu vật, ghi chép tỉ mỉ những sự kiện gia đình với mục đích giữ gìn truyền thống để giáo dục con cháu. Bởi vậy khi Việt và Chiến lớn lên, chú yêu cầu hai chị em đọc hết cuốn sổ gia đình. Mong ước của chú là lấy truyền thống cách mạng, truyền thống yêu nước của gia đình để giáo dục các cháu, để từ đó có trách nhiệm đứng lên chiến đấu và sống đúng nghĩa.
++ Lòng tự hào về truyền thống gia đình của chú Năm còn được chú Năm nói với Việt và Chiến qua một thông điệp giàu tính triết lí: “Chú thường ví chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó. Chú kể chuyện con sông nào ở nước ta cũng đẹp, cũng lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn rộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt của con người cũng sinh ra từ đó. Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, chị em Việt lớn lên rồi sẽ biết, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”. Câu nói khẳng định mỗi con người là một khúc sông, mỗi gia đình là một dòng sông để đổ vào biển lớn của nhân dân, đất nước. Từ đó nhắc nhở mỗi người phải biết kế thừa, trân trọng, tôn vinh giá trị truyền thống của cha ông.
++ Về tính cảm gia đình: chú luôn yêu thương và đùm bọc chị em Chiến như con đẻ của mình. Chú luôn đặt niềm tin vào thế hệ con cháu. Khi thấy Chiền thu xếp ổn thỏa công việc gia đình trước khi ra mặt trận, chú khen: “Khôn. Việc nhà nó thu gọn được thì việc nước nó mở rộng được. Gọn bề gia thất đặng bề nước non. Con nít chúng bay đánh giặc kì này khôn hơn các chú kì trước”.
+ Chú Năm có niềm tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng
++ Từng kinh qua lửa bom trận mạc nhưng khi về già không trực tiếp cầm súng đánh giặc, chú bày tỏ lòng nhiệt thành với cách mạng, tinh thần yêu nước khi khích lệ các cháu đăng kí nhập ngũ. Khi hai chị em Chiến, Việt tranh nhau đi độ đội, chú đồng ý cho cả hai chị em đi. Chú nói với huyện đội: “Hai đứa cháu tôi một lòng theo Đảng như vậy tôi cũng mừng. Việc lớn ta tính theo việc lớn, việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong”. Chú Năm đã đặt quyền lợi đất nước lên trên quyền lợi của gia đình. Chú nhắc nhở hai chị em phải giữ vững truyền thống của gia đình, thù cha mẹ chưa trả được mà trốn về thì chú chặt đầu. Qua đó cho thấy dũng khí yêu nước mãnh liệt phảng phất tinh thần trượng nghĩa, bộc trực của người Nam Bộ.
- Điểm gặp gỡ giữa hai nhân vật:
+ Cùng lấy cảm hứng từ tinh thần đấu tranh trong cuộc kháng chiến chống để quốc Mỹ, nhà văn Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đã gặp nhau trong việc xây dựng hình tượng cụ Mết (trong Rừng Xà Nu) và chú Năm (trong Những đứa con trong gia đình). Đó là hai nhân vật được ví như khúc thượng nguồn của một dòng sông về lòng yêu nước, truyền thống cách mạng được chảy từ thế hệ này sang thế hệ khác.
+ Đều là hiện thân cho vẻ đẹp của những người đi trước, là cầu nối giữa những giá trị quá khứ và hiện đại, người lưu giữ, nhắc nhở và giáo dục con cháu về truyền thống, có niềm tin son sắt vào Đảng, vào cách mạng.
+ Cùng sống trong cảnh đất nước đang phải gánh gồng với các cuộc kháng chiến chống đề quốc, thực dân, cùng chứng kiến và chịu nhiều đau thương mất mát do giặc Mỹ gây ra.
+ Người sâu sắc, trọng nghĩa tình và ít nói.
+ Đều là người có niềm tin và tầm ảnh hưởng (con cháu, buôn làng, cộng đồng...).
+ Đều có lòng tự hào v ề quê hương, con người.
+ Đều được xây dựng bằng ngòi bút cá thể hóa, được khắc họa bằng những chi tiết đặc sắc, mang tầm khái quát cao.
- Điểm khác biệt:
+ Cụ Mết: Nhân vật cụ Mết mang dáng dấp của người anh hùng, của già làng Tây Nguyên, là người lãnh đạo dân làng trong cuộc nổi dậy chống giặc ngoại xâm. Cụ Mết là nhân vật tượng trưng cho lịch sử, truyền thống hiên ngang bất khuất, cho sức sống bền bỉ. Ở cụ có những nét gần gũi với các tù trưởng hùng mạnh, thể hiện khát vọng, hoài bão của cả một cộng đồng trong một số sử thi Tây Nguyên. Viết về cụ Mết tác giả đã phát huy cao độ bút pháp sử thi và cảm hứng lãng mạn, lý tưởng hóa, trên hình tượng một nhân vật có thật, người đã lập nhiều thành tích xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp (được ví như anh hùng Núp vậy).
+ Chú Năm: mang dáng dấp của người dân Nam Bộ yêu nước, hiền lành, chất phác, giàu cảm xúc, là người hun đúc tinh thần chiến đấu cho thế hệ con cháu.
+ Hai nhân vật đại diện cho vẻ đẹp tâm hồn cho con người Tây nguyên và người nông dân Nam Bộ. Lòng yêu nước và căm thù giặc của họ đã phản ánh chân thực và tình thần yêu nước của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Qua hai câu chuyện một cộng đồng buôn làng Tây Nguyên, một gia đình Nam Bộ, các tác giả còn đề cập tới tầm khái quát rộng hơn đó chính là đại gia đình Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ gian khổ.
d.                  Bàn luận (0,5 điểm):
- Nhân vật cụ Mết trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành và chú Năm trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi đều là kết tinh những vẻ đẹp của con người Việt Nam, là điểm sáng của truyền thống cách mạng của dân tộc Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước .
- Xây dựng các hình tượng văn học trên, cả hai nhà văn đều hàm chứa ẩn ý: Tự hào về truyền thống, lời nhắc nhở cháu con hãy biết trân trọng những giá trị cội nguồn, giá trị lịch sử...tri ân với quá khứ.
4.       Chỉnh tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm):
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa Tiếng Việt.
5.       Sáng tạo (0,5 điểm):
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Xem thêm >>> So sánh hình tượng Tnú và A Phủ

Truy cập mục Mẹo Văn học để liên tục cập nhật những bài viết, đề thi hay - chính xác - xúc tích nhất nhé! Chúc các bạn học tập tốt <3