Đăng ký

Văn tham khảo bài Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

2,700 từ

 Nguyễn Đình Chiểu sinh thời vào lúc loạn lạc, dù sớm đỗ đạt nhưng đến năm 26 tuổi đã bị mù, ông trở về làm thầy thuốc, làm một nhà thơ. Các bài văn thơ của ông dùng để khích lệ tinh thần chiến đấu và mang tính giáo huấn cao. Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong đời thơ của ông. Hãy Cunghocvui.com tìm hiểu đoạn trích qua bài viết dưới đây

Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

I.  Về gia thế, Nguyễn Đình Chiểu như một lưu dân. Cha ông được triều đình Huế cử vào làm quan ở trong Nam và gặp mẹ ông, hai người thành gia thất và sinh ra ông vào năm 1822. ít lâu sau, cha ông bị mất chức, ông phải theo cha về quê nội để học hành. Đỗ tú tài vào năm 1843 ờ Gia Định, năm 1847, đang chuẩn bị thi một kì thi cao hơn thì Nguyễn Đình Chiểu được tin mẹ mất. Ông quyết định bỏ thi, lên đường về Nam để lo tang mẹ và bị ốm nặng mù cả hai mắt. Từ đó ông ở miền Nam, đem kiến thức và tấm lòng để dạy học, bốc thuốc cứu dân và viết sách, làm thơ... Ông sống như một lưu dân: rời Gia Định về quê vợ (bà Lê Thị Điền) ở Cần Giuộc, ông chạy về Ba Tri (Bến Tre)... Thơ văn của ông là tiếng nói của đạo lí thánh hiền, tiếng nói của người chuộng lẽ phải, của khí phách anh hùng mà Lục Vân Tiên là tác phẩm tiêu biểu.

Soạn bài Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

II.  Đoạn thơ này nằm trong phần đầu của truyện Lục Vãn Tiên. Sau khi giới thiệu đạo lí trung hiếu tiết nghía, nhà thơ đã giới thiệu Lục Vân Tiên, nhân vật chính của truyện, cảnh từ biệt thầy để đi thi. Trên đường về kinh dự thi, thấy dân than khóc chạy loạn, Vân Tiên hỏi và bắt đầu hành động...

Mười bốn câu thơ đầu là hình ảnh Vân Tiên đối đầu với bọn cướp. 14 câu miêu tả hành động, tâm lí nhân vật nếu có cũng lồng trong hành động, vỏn vẹn chỉ có một câu "Trước gây việc dữ tại mày” là chỉ để giải thích nguyên nhân hành động của Vân Tiên. Ngôn ngữ miêu tả trong đoạn này là ngôn ngữ của nhà võ: dứt khoát, rõ ràng. Văn thì khởi phụng dằng giao, Võ thì ba lược sáu thao ai bì. Tính cách anh hùng đã có trong Vân Tiên nhờ lối giáo dục văn võ song toàn đó. Bởi thế mà không ngạc nhiên mấy khi thấy tác giả thuật chuyện đánh bọn cướp nhanh và gọn đến thế. Trước khi bẻ cây làm gậy, trước khi quyết định đánh cướp, Vân Tiên đã hỏi dân làng chạy loạn. Và Vân Tiên, xuất phát từ cái tâm của con nhà vò hành thiện trừ ác mới dám một mình xông xáo vào vòng hiểm nguy, với tài thao lược như đã giới thiệu, Nguyễn Đình Chiểu miêu tả Vân Tiên tã đột hữu xông, - Lâu la bốn phía vỡ tan, còn Phong Lai đầu sỏ thì bị Tiên một gậy là chết ngay tức khắc. Ngôn ngữ của đoạn tho mộc mạc, gần với lời ăn tiêng nói của người dân Nam Bộ và cũng làm nổi bật cái tài của Vân Tiên.

Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

Đoạn thơ còn lại ghi cảnh gặp gõ giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, cũng với ngôn ngữ miêu tả nhưng đã có sự hiện diện của đặc tính tâm lí nhân vật một cách rõ ràng. Trước hết, Vân Tiên quan tâm đến tiếng người than khóc, một hình dung từ biểu hiện tâm lí lo sự. Những lời đối thoại giữa Vân Tiên và cô người hầu là những lời đối thoại đầy sắc thái tâm lí, đạo đức. Với cô hầu gái, đó là tâm lí của kẻ tôi trung. Cô đã vì đạo lí ấy mà giãi bày, rồi cúi đầu... lạy. Hình ảnh ấy là hình ảnh của người có tâm hồn mộc mạc, lương thiện, hết lòng với chủ mà ta thường thấy ỏ vùng thôn quê. Trước những lời nói, cử chỉ, cái tâm của người văn võ song toàn lại sáng lên, động lòng. Lúc này cái tâm của Vân Tiên mở ra với đối tượng được cứu. Cái tâm ấy cũng xuất phát từ lễ giáo Nho phong. Chàng đã khẩn khoản:

Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai.

Lễ giáo Nho phong có lằn ranh trong quan hệ gái - trai đã tới tuổi trưởng thành. Lằn ranh chỉ được xóa khi hai người tiến hành hôn lễ theo phong tục tập quán. Vân Tiên là một nho sĩ, chàng đã giữ lễ ấy. Ngôn ngữ giãi bày của nhà tho đã làm sáng thêm một quan điểm mà hiện nay chúng ta cho là khắt khe, nhưng suy cho cùng thì nó vẫn là cơ sở giữ gìn đạo đức gia đình, làm trong sáng đạo đức xã hội. Vân Tiên trở thành người lịch sự, cư xử có văn hóa cũng nhơ đã được giáo dục kĩ về lằn ranh dễ xóa, hay không hề có đối vơi những kẻ phàm phu. Chàng Vân ờ vị trí của “tu mi nhất nam tử" lịch sự xưng ta gọi nàng chứ không xưng mày như bọn cướp Phong Lai. Tế nhị và minh bạch trong từng chi tiết hỏi về hai nàng. Có lẽ nhờ đó mà Kiều Nguyệt Nga đã lên tiếng. Đấy là nghệ thuật chuyển đổi nhân vật thật khéo léo của nhà thơ. Trong đoạn thơ Kiều Nguyệt Nga giải thích, chúng ta thấy rõ quan niệm làm con của nàng, cũng là quan niệm giáo dục nữ nhi của đạo đức phong kiến. Nét đẹp ngôn, hạnh của tứ đức; tại gia tòng phụ của đạo tam tòng có cả trong đoạn thơ ngắn ấy với lời lẽ nhân gian:

Quê nhà ở quận Tây Xuyên,
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.
Sai quân đem hức thư về
Rước tôi qua đó liệu bề nghi gia
Làm con dãu dám cãi cha

Năm câu thơ ngắn, ngôn ngữ chẳng khác gì lời nói của người Nam bộc trực “khai háo lí lịch", diễn đạt phận làm con. Nàng cũng đã biểu lộ suy nghĩ của mình:

Chẳng qua là sự bất hình
Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi

Hai câu thơ bộc lộ tâm lí tự chủ của ngứời con gái. Nếu không vì đạo lí “tại gia tòng phụ”, làm con đâu dám cãi cha thì có thể Kiều Nguyệt Nga sẽ không đi chuyến này, sẽ không lâm nguy. Tâm lí mô đường cho tình yêu của nàng với Vân Tiên sau này khi cảm ơn công giải nguy, cảm tài năng và đạo đức của chàng.

Một đức tính đẹp khác ở Kiều Nguyệt Nga được bộc lộ qua ngôn ngữ của nhà thư là nàng vẫn giữ lễ giáo mà không ỉ lại vào quyền thế của cha. Cách xưng hô “quân tử - tiện thiếp”, cử chỉ, lời nói, “lạy rồi sẽ thưa” xuất phát từ lễ giáo ấy chứ không xuất phát từ vị trí của một tiểu thư con quan tri phủ tại chức. Từ đó, ta không ngạc nhiên lắm về chuyện đền ơn đáp nghĩa một cách rõ ràng, chân thật của nàng. Nguyệt Nga trung thực, Nguyệt Nga ngay thẳng, Nguyệt Nga thực lòng trong ngôn ngữ thư của Nguyễn Đình Chiểu. Nàng đã nói thẳng ra điều hệ trọng nhất của c.uộc đời nàng nếu không có Vân Tiên ra tay cứu giúp. Nàng mà rơi vào tay bọn cướp Phong Lai thì “Tiết trăm năm cũng bỏ đrmột /ỉơi”!'Nầng hồn nhiên.và ngây thư quá trong những câu chữ đầy nhân nghĩa, ân tình.

Trước tâm lòng tha thiết ấy,
Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì

Nụ cười cửa Vân Tiền thật tự nhiên, hồn hậu và đáng quý. Nó chẳng phải là nụ cười của Mã Giám Sinh hay Hồ Tôn Hiến trong Truyện Kiều, nụ cười của những kẻ ích kỉ, hẹp hòi, quên hết đạo lí. Người hiểu và trọng đạo lí làm người luôn có nụ cười thật thà, hồn hậu đáng quý ấy. Đúng rồi, chàng đã được thầy dạy: “Trai thì trung hiếu làm đầu”. Hành động trung hiếu phong phú ý nghĩa lắm. Dẹp tan bọn cướp hại dân, mang lại yên lành cho dân là trung, mang lại tiếng thơm cho cha mẹ là hiếu. Có lẽ vì hiểu thế mà Vân Tiên trả lời Nguyệt Nga là “Nào ai tính thiệt so hơn làm gì”. Rồi chàng lại tiếp lời:

Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng. 

Câu trả lời khẳng định bản chất của chàng, của anh hùng, quân tử, chí khí hơn người, dân thân hơn người; khẳng định việc làm của chàng vơi Kiều Nguyệt Nga cũng giống với những ai khác gặp nạn. Chàng làm việc nghĩa là do ở bản chất; do thành quả của giáo dục chứ chẳng vì “người đẹp Kiều Nguyệt Nga Chính vì quan điểm làm việc nghĩa ấy cùng vơi tài của chàng mà Kiều Nguyệt Nga càng thêm quyến luyến để rồi sau đó tự nguyện sống chung thủy với chàng. Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

III.   Cũng là chuyện gặp gỡ giữa hai người nam - nữ nhưtig ỏ Truyện Kiều, Kim Trọng gặp Kiều gián tiếp qua Vương Quan, còn ở đây là cuộc gặp gỡ trực tiếp trong hoàn cảnh “éo le, gay cấn” nên không thơ mộng bằng, nhưng lại làm nổi bật tính cách của hai nhân vật. Tính cách ấy xuất phát từ đạo lí cổ truyền, hợp với tình cảm dân gian: Trọng nghĩa khinh tài. Cái đẹp của đoạn thơ là ở lí tưởng ấy.

 

 

Mong rằng bài viết trên của Cunghocvui.com sẽ giúp các bạn hiểu thêm về tác phẩm. Chúc các bạn đạt điểm cao !