Đăng ký

Phân tích tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc (bài 2)

4,564 từ Phân tích
Đề bài

Đề bài: Phân tích bài Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc của Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Hướng dẫn giải

   Thủ tướng Phạm Văn Đồng là nhà chính trị, ngoại giao tài ba đồng thời cũng là nhà văn hóa lớn. ông để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị. Với những cống hiến lớn lao cho đất nước, ông đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng và nhiều Huân chương cao quý khác.

   Về văn học, Phạm Văn Đồng viết nhiều bài nghị luận đặc sắc về các danh nhân văn hóa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Mình… Trong đó có bài Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc.

   Bài văn viết nhân dịp kỉ niệm 75 năm ngày mất của nhà thơ Đồ Chiểu (3-7- 1888) và đăng trên Tạp chí Văn học tháng 7 – 1963. Đây là thời kì đế quốc Mĩ quyết định tài trợ, can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến tranh ở miền Nam. Phong trào đấu tranh chống Mĩ và tay sai của nhân dân miền Nam nổi lên khắp nơi, tiêu biểu là phong trào đồng khởi của nhân dân Bến Tre. Hoàn cảnh lịch sử ấy giúp chúng ta hiểu thêm tại sao tác giả Phạm Văn Đồng lại nhấn mạnh thời điểm khi ông viết bài văn ca ngợi Nguyễn Đình Chiểu.

   Nội dung sâu sắc và mới mẻ mà tác giả đặt ra trong bài viết là: Nguyễn Đình Chiểu, một nhân cách trong sáng, một nhà thơ lớn của dân tộc cần phải được đánh giá đúng đắn hơn, đầy đủ hơn.

   Bài viết có sức lôi cuốn mạnh mẽ do ngôn ngữ tác giả sử dụng vừa xúc động, thiết tha, kết hợp với nhiều hình ảnh, ngôn từ có khả năng gợi tả, gợi cảm cao, đặc biệt là phương pháp nghị luận chặt chẽ và xác đáng.

   Tác giả mở đầu bài viết bằng một nhận định khách quan có tính thời sự, chứa đựng luận đề (chủ đề) của bài viết: Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ phải sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này. Lúc này là năm 1963, đất nước ta đang bị tạm thời chia cắt làm hai miền. Nhân dân miền Bắc vừa xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa là hậu phương lớn tiếp sức cho nhân dân miền Nam chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược và bè lũ ngụy quyền tay sai bán nước.

   Từ năm 1954 đến 1959, đế quốc Mĩ và chính quyền Ngô Đình Diệm triển khai chính sách tố Cộng, ra sức truy nã, bức hại những người kháng chiến cũ, bắt bớ, tù đày và gây ra nhiều vụ tàn sát đẫm máu khắp miền Nam.

   Từ năm 1960, Mĩ quyết định tài trợ và can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến. Năm 1964, chúng đưa thêm 16.000 binh lính và sĩ quan Mĩ vào miền Nam. Chỉ một năm sau, con số ấy đã tăng lên tới 543.000.

   Trước tình hình đó, phong trào đấu tranh chống Mĩ – ngụy của nhân dân miền Nam nổi lên mạnh mẽ, quyết liệt; tiêu biểu nhất là phong trào đồng khởi ở Bến Tre. Đây là thời điểm cách mạng miền Nam đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Hoàn cảnh lịch sử trên giúp chúng ta hiểu thêm tại sao Thủ tướng Phạm Văn Đồng lại nhấn mạnh thời điểm ông viết bài văn ca ngợi nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu nhằm khẳng định truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, động viên nhân dân cả nước vùng lên tiêu diệt bọn bán nước và cướp nước.

   Tác giả đã sử dụng ẩn dụ nghệ thuật để khẳng định tài năng văn chương và tấm lòng yêu nước, thương dân vô cùng đáng quý của nhà thơ đất Lục tỉnh Nam Kỳ: Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy. Có người chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của Lục Vân Tiên, và hiểu Lục Vân Tiên khá thiên lệch về nội dung và về văn, còn rất ít biết thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, khúc ca hùng tráng của phong trào yêu nước chống bọn xâm lược Pháp lúc chúng đến bờ cõi nước ta cách đây một trăm năm!

   Theo tác giả, có hai lí do khiến ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu chưa sáng tỏ trên bầu trời văn nghệ của dân tộc. Lí do thứ nhất: Nhiều người chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của truyện thơ Lục Vân Tiên và họ hiểu khá thiên lệch về nội dung, nghệ thuật của truyện. Lí do thứ hai: Phần lớn người đọc biết rất ít về thơ văn yêu nước 1 một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.

   Từ đó, tác giả đi đến kết luận; Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước mà tác phẩm là những trang bất hũ ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta chống bọn xâm lược phương Tây ngay buổi đầu lúc chúng đặt chân lên đất nước chúng ta. Những luận điểm nêu trong phần mở bài này đã được tác giả phân tích và chứng minh để làm sáng tỏ ở phần sau.

   Trong phần thân bài, trước hết tác giả giới thiệu về Nguyễn Đình Chiểu, nhấn mạnh đến khí tiết của một nhà thơ yêu nước, thương dân, trọn đời phấn đấu hi sinh vì nghĩa lớn: Nguyễn Đình Chiểu vốn là một nhà nho, nhưng sinh trưởng ở đất Đồng Nai hào phóng, lại sống giữa lúc nước nhà lâm nguy, vua nhà Nguyễn cam tâm bán nước để giữ ngai vàng, nhưng khắp nơi, nhân dân và sĩ phu anh dũng đứng lên đánh giặc cứu nước. Vì mù cả hai mắt, hoạt động của người chiến sĩ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu là thơ văn. Và những tác phẩm đó, ngoài những giá trị văn nghệ, còn quý giá ở chỗ nó soi sáng tâm hồn trong sáng và cao quý lạ thường của tác giả, và ghi lại lịch sử của một thời khổ nhục nhưng vĩ đại!

   Tác giả khẳng định: Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương chói sáng về tinh thần yêu nước thiết tha và thái độ căm thù giặc sâu sắc. Quan điểm của ông là dùng thơ văn làm vũ khí chiến đấu chống xâm lược, ca ngợi chính nghĩa và truyền thống đạo lí tốt đẹp của nhân dân lao động, phê phán những kẻ lợi dụng văn chương để làm những điều xằng bậy, xấu xa. Ý trên đã được thể hiện qua hai đoạn văn ngắn gọn và cô đúc: Cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu là của một chiến sĩ hi sinh phấn đấu vì một nghĩa lớn. Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu là thơ văn chiến đấu, đánh thẳng vào giặc ngoại xâm và tôi tớ của chúng:

    Học theo ngòi bút chí công

    Trong thi cho ngụ tấm lòng Xuân thu

   Đối với Nguyễn Đình Chiểu, cầm bút, viết văn là một thiên chức. Và Nguyễn Đình Chiểu trọng chức trách của mình chừng nào thì càng khinh miệt bọn lợi dụng văn chương để làm việc phi nghĩa chừng nấy:

    Thấy nay cũng nhóm văn chương

    Vóc dê da cọp khôn lường thực hư!

   Sau khi khẳng định cuộc đời và quan điểm sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, tác giả lần lượt lấy thơ văn yêu nước và tác phẩm Lục Vân Tiên để chứng minh.

   Khi phân tích thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, Phạm Văn Đồng đã đặt vào bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ của nhân dân Nam Bộ với phong trào chống Pháp do Trương Định, Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo và trong dòng chảy của văn thơ yêu nước giai đoạn này để thấy rõ nguồn mạch phát sinh cảm hứng là tất yếu, đồng thời khẳng định vị trí lá cờ đầu của Nguyễn Đình Chiểu trong thơ văn yêu nước chống Pháp thời kì cận đại cuối thế kỉ XIX.

   Tác giả nhận xét về thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu bằng một luận điểm ngắn gọn, cô đúc: Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu làm sống lại trong tâm trí của chúng ta phong trào kháng Pháp oanh , liệt và bền bỉ của nhân dân Nam Bộ từ 1860 về sau, suốt hai mươi năm trời.

   Vì sao tác giả lại mở đầu phần này bằng việc tái hiện hoàn cảnh lịch sử nước ta trong giai đoạn lịch sử sau năm 1860? Bởi vì một nhà văn chỉ thực sự lớn khi tác phẩm của nhà văn ấy phản ánh một cách trung thành những đặc điểm cơ bản nhất của một giai đoạn tịch sử có ý nghĩa trọng đại đối với đời sống của đất nước, nhân dân. Riêng điểm này, Nguyễn Đình Chiểu đã xứng đáng là ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc.

   Trong khi vua quan nhà Nguyễn thua trận đầu hàng cắt đất dâng cho giặc thì các tầng lớp nhân dân Nam Bộ lúc bấy giờ, nhân dân lao động và các bậc sĩ phu đều kiên quyết vùng dậy đánh giặc cứu nước. "Giặc đến nhà đàn bà phải đánh". Phong trào bắt đầu dấy lên ở miền Đông, sau lan rộng khắp nơi ở "Lục tỉnh", biến thành cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn, nhiều nơi, nhiều lúc sôi nổi và mạnh mẽ lạ thường, khiến cả kẻ thù cũng không tiếc lời tỏ lòng khâm phục…

   Tác giả gọi thời kì Nguyễn Đình Chiểu sống là một thời khổ nhục nhưng vĩ đại. Vì thế, sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu vừa là tấm gương phản chiếu một thời đại, vừa là lời kêu gọi nhân dân vùng lên đấu tranh và ngợi ca những nghĩa sĩ dũng cảm, đồng thời cũng là lời than khóc cho những anh hùng thất thế đã bỏ mình trong cuộc chiến đấu vì nước, vì dân.

   Tác giả khẳng định: Cho nên không phải ngẫu nhiên mà thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, một phần lớn là những bài văn tế, ca ngợi những người anh hùng suốt đời tận trung với nước và than khóc những người Hệt sĩ đã trọn nghĩa với dân.

   Song, văn chương chân chính còn phải tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của thời đại. Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu là như thế. Phạm Văn Đồng khẳng định: Tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu lớn lao bởi sức cổ vũ mạnh mẽ cho cuộc chiến đấu chống thực dân, bằng cách làm cho lòng người rung động trước những hình tượng sinh động và não nùng của những con người suốt đời tận trung với nước, trọn nghĩa với dân, giữ vẹn khí phách hiên ngang cho dù chiến bại.

   Mặt khác, bản chất của văn chương là sáng tạo. Văn chương đóng góp cho cuộc đời bằng những cái độc đáo, chưa từng thấy ở các tác phẩm trước đó hay cùng thời ấy. Đó là lí do khiến Phạm Văn Đồng nói đến bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc nhiều nhất và hào hứng nhất.

   Bài văn nghị luận Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc được tác giả viết nên không chỉ bằng một trí tuệ sáng suốt, sâu sắc mà còn bằng một cảm xúc mạnh mẽ khác thường. Sự kết hợp giữa con tim và khối óc đã khiến tác giả viết được những câu văn hay nhất, làm rung động lòng người. Nhưng tác giả đã không viết về Nguyễn Đình Chiểu với nỗi tiếc thương của một người hoài cổ mà tác giả luôn nhìn người xưa từ hôm nay và đặt ra vấn đề vì cuộc sống hôm nay. Chính vì thế mà những con người đang sống hết mình trong cuộc chiến đấu hào hùng chống đế quốc xâm lược ngày càng có điều kiện để thông cảm hơn với một con người cũng đã sống hết mình trong công cuộc chống thực dân Pháp oanh liệt mà đau thương thuở ban đầu. Điều ấy cũng đã khiến cho Nguyễn Đình Chiểu trở thành ngôi sao càng nhìn càng thấy sáng.

   Nghệ thuật của đoạn văn này thể hiện ở phương pháp lập luận chặt chẽ, ở bố cục rõ ràng, mạch lạc, ở ngôn ngữ trong sáng, tự nhiên với những lời bình hàm súc, sắc sảo, mới mẻ về bài Văn nổi tiếng: Ngòi bút, nghĩa là tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả, thật là sinh động và não nùng, cảm tình của dân tộc đối với người chiến sĩ của nghĩa quân, vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước.

   Tác giả dẫn một đoạn của bài Văn tế, so sánh với Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi rồi bình: Hai bài văn, hai cảnh ngộ, hai thời buổi, nhưng một dân tộc. Bài cáo của Nguyễn Trãi là khúc ca khải hoàn, ca ngợi những chiến công oanh liệt chưa từng thấy, biểu dương chiến thắng làm rạng rỡ nước nhà. Bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc là khúc ca những người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang: "Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc… muôn kiếp nguyện được trả thù kia…". Kết thúc đoạn văn này, tác giả bày tỏ lòng tưởng nhớ đến hương hồn của nhà thơ yêu nước cùng những nghĩa quân đã anh dũng hi sinh cho nghĩa lớn: Có lẽ dưới suối vàng, linh hồn của Nguyễn Đình Chiểu và nhũng nghĩa quân lúc bấy giờ, ngày nay phần nào đã được hả dạ. Phần tiếp theo, tác giả giới thiệu truyện Lục Vân Tiên, tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Đình Chiểu có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong dân gian, nhất là ở miền Nam và chỉ ra một số nhận xét chưa đúng về truyện Lục Vân Tiên. Ông chứng minh giá trị của tác phẩm này bằng cách phân tích cái hay, cái đẹp về cả nội dung lẫn nghệ thuật: Đúng, đây là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa! Tác giả cũng nhận xét một cách khách quan là: Tất nhiên, những giá trị luân lí mà Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi, ở thời đại chúng ta, theo quan điểm của chúng ta thì có phần đã lỗi thời… về mặt nghệ thuật của tác phẩm Lục Vân Tiên, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng chỉ ra rằng: về văn chương của Lục Vân Tiên, phải để ý đây là một chuyện "kể", chuyện "nói". Tác giả cố ý viết một lối văn "nôm na", dễ hiểu, dễ nhớ, có thể truyền bá rộng rãi trong dân gian. Cho nên, dù có chỗ này chỗ khác lời thơ chưa được hay, chưa được trau chuốt thì cũng là điều khó tránh khỏi. Dẫu sao đôi chỗ sơ sót về văn chương không thể làm giảm giá trị văn nghệ của bản trường ca thật là hấp dẫn từ đầu đến cuối. Đánh giá trên đây cho thấy tác giả là người luôn giữ được sự trung thực và công bằng trong khi nghị luận.

   Bài viết kết thúc bằng những câu văn thể hiện tình cảm kính yêu và lòng biết ơn chân thành: Nhân kỉ niệm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu (ngày 3 tháng 7 năm 1988), trong lòng chúng ta, chúng ta hãy đốt một nén hương để tưởng nhớ người con quang vinh của dân tộc.

   Giá trị bài nghị luận văn học Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không chỉ nằm ở nội dung sâu sắc, xúc động mà còn ở phương pháp lập luận khúc chiết, mạch lạc, ở ngôn ngữ trong sáng, giàu cảm xúc, có sức thuyết phục cao. Bằng hiểu biết thấu đáo, cách nhìn, cách nghĩ mới mẻ và nhiệt tình của một người gắn bó hết mình với nước, với dân, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã làm sáng tỏ mối liên hệ khăng khít giữa thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu với hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ và với thời đại hiện nay. Tác giả hết lòng ca ngợi Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ trọn đời dùng cây bút làm vũ khí chiến đấu cho dân, cho nước: Nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng là một ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc.