soạn bài Thuế máu- soạn văn 8
Câu 1. Nhận xét về cách đặt tên chương, tên các phần trong văn bản.
Tác giả đặt tên chương là Thuế máu. Thuế máu là cách nói của Nguyền Ái Quốc, ý chỉ một trong rất nhiều thứ thuế bất công vố lí mà ngươi dân thuộc địa phải gánh chịu, một thứ thuế rất tàn nhản phũ phàng, đó là bị bóc lột xương máu và mạng sống. Cái tên Thuế máu do đó đã gợi lên trong lòng người đọc không chỉ số phận đen tôi bi thương của người dân thuộc địa, mà còn hàm chứa cả lòng căm phẫn, thái độ mỉa mai đôi với một trong những tội ác được xem là. ghê tởm nhất của thực dân dế quốc.
Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương: Chiến tranh và người bản xứ, Chế độ lính tình nguyện, Kết quả của sự hi sinh không chỉ gợi lên quá trình lừa bịp bóc lột thuế máu đến tận cùng của bọn thực dân mà còn thể hiện tinh thần chiến đâu mãnh liệt, sâu sắc, sự phê phán, đả kích triệt để của tác giả.
Câu 2. So sánh thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm: trước khi có chiến tranh và khi chiến tranh đã xảy ra. Số phận thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa được miêu tả như thế nào?
Thái độ của các quan cai trị thực dân thuộc địa ở hai thời điểm: trước khi có chiến tranh và khi chiến tranh đã xảy ra. sấ phận thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa.
- Trước khi có chiến tranh, người dân ở thuộc địa bị xem là giống người hạ đẳng, bị đôi xử tàn tệ, bị đánh đập như súc vật.
- Khi chiến tranh bùng nổ, lập tức hộ đựợc bọn thực dân tâng bốc, vỗ về, được phong cho những danh hiệu cao quý. Điều này cho thấy thủ đoạn lừa bịp của bọn quan cai trị thực dân vơi mưu đồ biến họ thành vật hi sinh.
- Số phận thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa được tác giả miêu tả:
- Phải rời bỏ, cách xa giạ đình, xứ sở quê hương vì mục đích vô nghĩa, đem sinh mạng đổi lấy danh dự hão huyền không đáng có.
- Là vật hi sinh cho lợi ích danh dự của bọn cai trị, phải chết thảm thương trên các chiến trường ác liệt, xa xôi: Ảy thế mà... lập tức... đi phơi thây, bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái, đưa thân cho người ta tàn sát, lấy máu mình tưới..., lấy xương mình chạm... Đoạn này giọng điệu của tác giả vừa giễu cợt vừa thật xót xa.
- Dù không trực tiếp cầm súng ra trận, nhưng nhiều người dâri thuộc địa phải làm công việc chê tạo vũ khí phục vụ chiến tranh ciìng gánh chịu bệnh tật, cái chết đau đớn.
Để làm rõ vấn đề, tác giả đã nêu lên một con số đáng chú ý về số người bản xứ đã bỏ mạng trong những năm Chiên tranh Thế giới lần thứ nhất.
Câu 3. Nêu rõ các thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân. Người dân thuộc địa có thực "tình nguyện" hiến dâng xương máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền không?
- Tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trôn toàn cỗi Đông Dương, vây bắt và cưỡng bức người ta phải di lính với đủ loại: lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, V.V..
- Lợi dụng chuyện bắt lính để bọn nhà giàu kiếm chác.
- Sẵn sàng giam cổ, trói, xích, nhốt người ta cho đến khi họ chọn một trong hai con đường: "Vì lính tình nguyện hoặc xì tiền ra".
- Tuy vậy, chính quyền thực dân vẫn rêu rao về lòng tự nguyện đầu qu&n của người dân thuộc địa, lời tuyên bố trịnh trọng của phủ toàn quyền thực chất là một sự lừa bịp hết sức trơ trẽn.
- Sự thực đúng như “Thuế máu” đã phản ánh, không hề cố sự tình nguyện hiến dâng xương máu, mà người dân thuộc địa hoặc trốn tránh hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí, tác giả cho biết họ còn phải tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất để khỏi phải đi lính.
Các lời tuyên bố trịnh trọng của thực dân cầm quyền được Nguyễn Ái Quốc nhắc lại với giọng điệu giễu cợt và phản bác lại bằng những thực tế hết sức hùng hồn chân thực.
Câu 4. Kết quả của sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh như thế nào? Nhận xét về cách đối xử của chính quyền thực dân đối với họ sau khi đã bóc lột hết “thuế máu”của họ?
Khi hết chiến tranh, những lời tuyên bố “tình tứ? của các ngài cầm quyền cũng bỗng dưng im bặt. Cả người Nê-gơ-rô lận người An-nam-mít mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thiu"
- Đối với người dân thuộc địa, sự hi sinh máu xương chẳng hề mang lợi ích gì cho họ bởi chế độ bản xứ không hề biết đến chính nghĩa và công lí.
- Chính quyền thực dân trở mặt, tước đoạt hết của cải mà người lính thuộc địa mua sắm được, đánh dập họ vô cớ, đối xử với họ như dối với súc vật. Mặc nhiên họ trở lại giống người bẩn thỉu, hèn hạ” như cũ.
- Bỉ Ổi nhất là chính quyền thực dân còn cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện cho thương binh người Pháp và vợ con của tử bỉ người Pháp. Bọn chúng đă “không ngần ngại đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đấy túi mình".
Câu 5. Nhận xét về trình tự bố cục các phần trong chương. Phân tích nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện qua cách xây dựng hình ảnh, qua giọng điệu.
a) Ba phần của chương Thuế máu được bố cục theo trình tự thời gian: trước, trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới 1914 - 1918. Với cách sắp xếp này bộ mặt giả nhân giả nghĩa trơ trẽn, bản chất độc ác cúa chính quyền thực dân Pháp xung quanh việc bóc lột thuế máu được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa được miêu tả một cách cụ thể, sinh động.
b) Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện chủ yếu qua các phương diện sau:
- Xây dựng một hệ thống hình ảnh sinh động, giàu tình cảm và sức mạnh tố cáo.
+ Trước hết, những hình ảnh được xây dựng đều có tính xác thực, phản ánh chính xác tình trạng thực tế. Bản thân các hình ảnh ấy đã mang tính lí lẽ không thể chối cãi.
+ Vừa xác thực, các hình ảnh trong tác phẩm vừa mang tính chất châm biếm, trào phúng sắc sảo và xót xa. Nhiều hình ảnh, nhất là ở phần Chiến tranh và người bản xứ mang đậm cảm hứng mỉa mai chua chát, cay đắng cho số phận thảm thương của người lính thuộc địa.
+ Gắn với hình ảnh, ngôn từ của tác phẩm cũng mang màu sắc trào phúng, châm biếm: “con yêu", “bạn hiền”, “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”, “lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế”, “đem xương mình chạm nên những chiếc gậy, “vật liệu biết nói”.
- Giọng điệu trào phúng đặc sắc:
+ Giọng điệu giễu cợt, mỉa mai (chú ý “đùng một cái”, “ấy thế mà”)
+ Nhắc lại những mĩ từ danh hiệu hào nhoáng mà chính quyền thực dân khoác cho người lính thuộc địa để đả kích bản thân lừa bịp trơ trẽn.
+ Sử dụng rất thành công giọng điệu giễu nhại, nghệ thuật phản bác (chú ý đoạn cuối phần II) Dùng liên tiếp các câu hỏi để nêu lên các sự thực đập lại lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền
Câu 6. Nhận xét về yếu tố tự sự và yếu tố biếu cảm trong đoạn trích được học.
Tuy là một văn bản chính luận nhưng tác giả đa khéo kết hợp phương pháp thuật kể với những câu chuyện, những chứng cứ cụ thề với cả những con số lây từ thực tế không thể chôì cãi dược. Hơn thế nữa, Người còn dẫn cả ý kiên, khác hay lời lẽ của chính đối tượng đả kích dể làm tăng thêm tính xác thực.
Ngoài ra, trong văn bản trên, các hình ảnh được tác giả xây dựng đều mang tính biểu cảm cao. Qua đó nêu bât được số phận đáng thương của người dân thuộc địa và bộ mặt giả nhân giả nghĩa bỉ ổi của nhà cầm quyền thực dân. Cũng từ đó người đọc đã nhận ra lòng cãm phẫn kẻ thống trị hung bạo tàn ác, niềm xót xa cảm thương cho thân phận người làm nô lệ đã bị bóc lột “thuế máu* một cách dã man tàn tệ.
Đây là văn bản chính luận, nhưng ở đây các yếu tô' tự sự và biểu cảm đã được tác giả kết hợp một cách chặt chẽ, nhuần nhuyễn và hài hòa.