Soạn bài Cô bé bán diêm
Câu 1. Hãy xác định ba phần (chỗ bắt đầu, chỗ kết thúc từng phần) của bài này nếu lấy việc em bé quẹt từng que diêm làm phần trọng tâm. Căn cứ vào đâu đế có thể chia phần thứ hai (phần trọng tâm) thành những đoạn nhỏ hơn?
Trả lời:
- Bố cục:
+ Phần I: Hoàn cảnh của cô bé bán diêm.
+ Phần II: (Trọng tâm) Cô bé bán diêm và những mộng tưởng.
+ Phần III: Cái chết thương tâm của em bé.
- Căn cứ vào những lần quẹt diêm của cô bé để xác định những đoạn nhỏ.
+ Ba lần quẹt đầu tiên ước mơ về lò sưởi, đồ chơi, thức ăn hiện ra.
+ Lần thứ 4, người bà hiện lên hiền hậu
+ lần thứ 5 cô bé quẹt hết số diêm trong hộp để níu giữ hình ảnh người bà.
Nhìn chung, truyện diễn biến theo trình tự ba phần mạch lạc, hợp lí.
Câu 2. Trong phần đầu, nhà văn đã tạo dựng hoàn cảnh (gia đình, cuộc sống) và bối cảnh (thời gian, không gian) của em bé bán diêm như thê nào? Những hình ảnh tương phản (đối lập, đặt gần nhau, làm nổi bật lẫn nhau) ở đây được thế hiện ra sao và nhằm mục đích nghệ thuật cụ thể gì?
Trả lời:
- Gia cảnh của cô bé bán diêm:
+ Gia cảnh sa sút, mồ côi mẹ, bà ngoại mất
+ Sống với người bố hay mắng nhiếc, chửi rủa, đánh đập trên căn gác sát mái nhà
- Hình ảnh cô bé bán diêm:
+ Đầu trần, chân đất, bụng đói, dò dẫm đường
+ Cả ngày không bán được bao diêm nào
- Thời gian: đêm giao thừa
- Không gian: ngoài đường phố lạnh lẽo, mọi nhà đều sáng rực đèn
+ trong phố sực nức mùi ngỗng quay
- Những hình ảnh tương phản: An-đéc-xen trong tác phẩm này đã sứ dụng nhiều hình ảnh tương phản:
+“Trời đông giá rét tuyết rơi” khác cô bé “đầu trần, chân đi đất”.
+ Ngoài đường phố lạnh buốt và tối đen khác cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn. Cô bé bụng đói vì cả ngày chưa ăn uống gì khác “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”.
⟹ Những hình ảnh tương phản này được chọn lọc, nhằm nêu bật tình cảnh tội nghiệp, đáng thương của cô bé vừa rét vừa đói vừa khổ.
Ngoài ra, còn có sự tương phản giừa hình ảnh “cái xó tối tăm” mà có phải sống chui rúc với bố hiện nay với “ngôi nhà xinh xắn có dây thường xuân bao quanh” năm xưa khi bà nội cô còn sống. Hình ảnh tương phản này vừa nêu bật nỗi khổ vật chất, vừa cho thấy sự mất mát tinh thần cùa cô bé bây giờ, vì chỉ có bà nội cô là người thương cô.
Câu 3. Các mộng tưởng của em bé qua các lần quẹt diêm (lò sưởi, bàn ăn, cây thông Nô-en, người bà, hai bà cháu bay đi) diễn ra lần lượt có hợp lí không? Vì sao? Trong các mộng tưởng ấy, diều nào gắn với thực tế, điều nào thuần túy chỉ là tưởng tượng?
Trả lời:
- Mộng tưởng của cô bé bán diêm hiện ra hợp lý với thực tế:
+ Muốn được sưởi ấm và ăn no: lò sưởi, ngỗng quay
+ Khao khát được sum họp gia đình bên cây thông No-el
+ Muốn được vui vẻ bên người bà hiền hậu
+ Cảnh hai bà cháu bay lên trời: thoát khỏi những đau buồn
- Mộng tưởng gắn với thực tế: lò sưởi, ngỗng quay, cây thông
- Mộng tưởng thuần túy là mộng tưởng: gặp lại người bà
⟹ Những mộng tưởng của cô bé bán diêm cũng là mộng tưởng chung của bất kì đứa trẻ nào cùng cảnh ngộ: muốn ấm no, hạnh phúc bên gia đình.
Câu 4. Hãy phát biếu những cảm nghĩ của mình về truyện "Cô bé bán diêm" (trích), nói chung và về đoạn kết của truyện nói riêng.
Trả lời:
- Cô bé bán diêm là một truyện ngắn đặc sắc. Câu chuyện thật thương tâm. Hạnh phúc đến với cô bé đáng thương ở đây không thể nào có được trên trần thế mà chỉ có trong ước mơ, trong mộng tưởng. Khi sắp sửa lìa đời, người đời đều ghẻ lạnh, chi có mẹ cô và bà nội của cô là thương yêu cô hết lòng nhưng cả hai đều không còn trên đời này nữa. Bố cô vì nghèo khó nên lúc nào cũng cau có, cũng luôn luôn mắng nhiếc, chứa rủa cô. Từ thằng bé lượm chiếc giày đến khách qua đường, chẳng ai ghé mắt thương cảm đến cô bé.
- Trong cái xã hội thiếu hẳn tình thương ấy, nhà văn An-đéc-xen đã nhỏ những giọt nước mắt của lòng nhân đạo xuống số phận cô bé đáng thương. Hình ảnh thi thế cô với đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười và cảnh huy hoàng hai bà cháu bay lên trời để đón lấy những niềm vui đầu năm chính là niềm ưu ái mà nhà văn dành cho những số phận đau khổ.
Đoạn kết truyện:
- Cảnh tượng cô bé bán diêm chết vì giá rét nhưng miệng vẫn mỉm cười- đây là sự tưởng tượng của tác giả, giảm bớt sự đau thương.
- Cái chết lúc này là sự cứu rỗi- hai bà cháu bay về chầu Thượng đế.
- Cái kết vừa có sự bi thương, vừa mang màu sắc cổ tích (phản ánh ước mơ, khát vọng được hạnh phúc, ấm no của con người)