Hướng dẫn soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ( tác phẩm)
Câu 1. Tìm bố cục của bài văn tế.
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ở đây cũng vậy, có thể chia ra làm 3 phần:
- Phần 1: Câu 1 - câu 2: Tình thế hết sức căng thẳng khi ấy và sự hi sinh cao quý chông lại giặc thù.
- Phần 2: Câu 3 - câu 16: Thân thế, công đức của người chiến sĩ cần Giuộc.
- Phần 3: Còn lại: Niềm cảm phục và tiếc thương của những người còn sống.
Câu 2. Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ được tái hiện trong bài văn tế như thế nào? Theo anh (chị), đoạn văn miêu tả này đạt giá trị nghệ thuật cao ở những điểm nào?
Đoạn văn chính này thể hiện hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân qua hồi ức của nhà thơ. Trước hết, họ những người nông dân lam lũ:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó. (3)
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ. (4)
Việc cuốc, việc cà, việc bừa, viếc cấy, táy vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ,
mắt chưa tùng ngó. (5)
Đúng như Hoài Thanh nhận xét: “Biết bao yêu thương trong một cui cút”. Câu (3) bộc lộ tình cảm thương mến của cụ Đồ 1 những kiếp người nhỏ nhoi cùng khổ này. Họ làm ăn cần cù vất vả toan khó nhọc nhưng vẫn đói nghèo.
Tiếp theo là câu (4), với nhiều chi tiết, nhà thơ nhằm nêu bật một điều là họ thật là thuần phác, ngoài việc đồng áng, họ không còn biết thêm một việc gì khác, nghĩa là: “chỉ biết ruộng trâu". Không gian và thế giới của họ hạn hẹp, quẩn quanh “ở theo làng bộ". Trong câu (5) liền đó, cụ Đồ đã liệt kê một loạt những công việc: việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy... nhiều đến nỗi tưởng như ngập cổ ngập đầu của những người nông dân bé nhỏ đáng thương này.
Trong biết bao điều “chưa biết" của họ, nhà thơ chỉ kể mỗi một điều:
“Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung", “Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó..." để nhân mạnh là những người nông dân nghèo khổ này không hề biết gì việc quân, việc lính hay chiến trận binh đao cả.
Thế mà bỗng chốc họ đã trở thành người nghĩa sĩ, hơn nữa, người nghĩa sĩ anh hùng cứu nước. Quá trình phát triển này được nhà thơ thể hiện rất chân thực trong tình cảm và việc làm của người nghĩa sĩ . đánh Tây.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi tinh chiên
vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. (6)
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ông khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.(7)
Một môi xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lủ treo
dê bán chó. (8)
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trôn ngược, trôn xuôi, chuyến này
dốc ra tay bộ hổ. (9)
Tiếng phong hạc là điển tích xưa thể hiện nỗi hồi hộp, lo sợ thậm chí hoảng loạn trước sự tiến công của kẻ thù. Quân Pháp hung bạo, vũ khí của chúng lại tôi tân. Đại đồn Chí Hòa đã bị vỡ. Vua quan và quân lính triều đình e sợ. Những người nông dân nghèo khổ này cũng thế, đâu thể khác hơn. Họ chỉ biết “phập phồng", “trông tin quan như trời hạn trông mưa". Là con dân, họ chỉ biết trông chờ vào bậc phụ mẫu của mình (quan là dân chi phụ mẫu!). Thế đấy vừa phập phồng vừa trông đợi không chỉ đôi ngày ba bữa mà đến những mươi tháng vời vợi mỏi mòn...
Và tất nhiên, không thể nào khác được, lòng căm thù bọn cướp nước đã biểu hiện ngày càng đậm nét. Lúc đầu, họ chỉ ghét chúng là loài dị tộc tanh hôi “mùi tinh chiên vấy vá". Nhà thơ đã cụ thể hóa cái ghét ấy bằng hình ảnh so sánh: “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ" đúng với tâm hồn của nông dân. Dẫu sao, cái ghét lúc này cũng còn có mức độ. Nhưng rồi do “bữa bữa", “ngày ngày", giặc thù hiện ra ngang nhiên như gai đâm vào mắt với “bòng bong che", “ông khói chạy" . Vốn căm ghét bọn chúng nên người nông dân chỉ gay gắt: “tráng lốp”, “den sỉ”. Trạng thái của sự ci chuyển sang căm thù mãnh liệt: “muốn tới An
Một môi xa thư đô sộ, há đê ai chém rắn đuổi hươu;
hai vâng nhật nguyệt chói lòa, đẵu dung lủ treo dê bán chó.
thi sự căm thù mới lên tới đỉnh cao Hai vế câu 8 thật trang trọng với nhiêu từ ngữ Hán Việt, điển tích, điển cố', nhằm thê hiện mọt đieu hết sức cao cả, thiêng liêng, đó là ý thức về sự thông nhât cua To quoc, về trách nhiệm trước công lí, lẽ phải. Đặc biệt với thành ngữ nôm na dân dã: “treo dê bán chó”. Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định sự sáng suốt, tinh tường của nhân dân nói chung và những người nông dân nghèo I khổ này nói riêng. Cái mặt nạ “khai hóa ’, truyên dạo của giặc Pháp đã bị phá vỡ, lôi ra trọn vẹn cái dã tâm xâm lược cua bọn chúng.
Hiểu được điều đó, người nông dân đã tự nguyẹn ra đánh giặc. Họ trỏ I thành nghĩa sĩ:
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
chẳng ai thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Một loạt các động từ làm vị ngữ chỉ hành động xin - ra sức đoạn, dốc- ra tay - bộ thể hiện một khí thế hào sảng, hãm hơ và tự tin của người dân binh mộ nghĩa.
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Nguyễn Đình Thi), hình ảnh người chiếu sĩ chiến đâu trong trận công đồn được tái hiện tài tình trong các câu I còn lại của đoạn 2:
Khá thương thay!
Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ, theo dòng ở lính diền binh; chẳng qua là dân ấp dân lân, mến
nghĩa làm quân chiêu mô. (10)
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chuc trân binh thứ không chờ bày bố. (11)
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; I trong tay cầm một ngọn tầm
vông, chi nài sắm dao tu, nón gỗ. (12)
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cùng đốt xong nhà dạy đạo kia
Gươm deo dùng bằng lưỡi dao phay, củng chém rơi đầu quan hai họ. (15)
Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào mình như chẳng có. (14)
Kẻ dâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ni hồn kinh; bọn hè trước, lù ó sau, trôi kệ
tàu sắt tàu đồng súng nổ. (15)
Một lần nữa, Nguyền Đình Chiểu nhắc lại nguồn gốc nông dân của người nghĩa sĩ, hơn nữa họ là người nông dân nghèo khó, là "dân ấp dân lân”. Bởi vậy, đi vào chiến đấu, họ nào được chuẩn bị gì đâu. Khi được chuẩn bị từ những hiểu biết tối thiểu về kĩ thuật tác chiến: “Mười tám han võ nghệ nào đợi tập rèn, chín chục trận binh thư không chờ bày bố”. Họ xa lạ với việc binh đao, chưa hề luyện tập về đội ngũ: Vốn chẳng phải quân cơ quản vệ theo dòng ở lính diễn binh. Không phải là lính chính quy của triều đình nên họ không có cả những trang bị thô sơ nhất “bao tấu”, “bầu ngòi, “dao tu”, “nón gõ”. Tuy thế, họ rất chủ động “không chờ”, “không đợi” mà cũng “chẳng nài”. Vì “bát cơm manh áo” mà đánh giặc, người nghĩa sĩ tự trang bị thộ sơ nhất cho mình: Ao mặc chỉ là một manh áo vải. Vũ khí là ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, là rơm con cúi. Thế mà họ đã dũng cảm xông vào chông lại mã tà ma ní, thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, có tàu sắt, tàu đồng súng nổ.
Hai câu 14, 15 là bức tranh chân thực và sinh động đặc tả hình ảnh người dân binh mộ nghĩa trong phút công dồn:
Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn dạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; Bọn bè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.
Hàng loạt các động từ, giới từ, hàng loạt yếu tố trùng lặp và câu văn như bị ngắt vụn ra đã tạo nên một không khí hết sức căng thẳng, quyết liệt của trận đánh. Người đọc như hình dung được hình ảnh người nghĩa sĩ trong tiếng súng rền vang của kẻ thù đã hăm hở xông lên như bão táp “xô cửa. xông vào”, “đạp rào lướt tới”. Họ chống đỡ, công thủ đủ mọi nơi, mọi hướng “hè trước, ó sau”, “đâm ngang”, “chém ngược”. Xem thường súng đạn tối tân của lũ giặc, họ xông xáo lập nên bao chiến công vang dội “đốt xong nhà dạy đạo kia”, “chém rớt đầu quan hai nọ”.
Nghệ thuật: Để xây dựng hình tượng nghệ thuật về những người nghĩa sĩ, tác giả đã dùng hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ bình dị, giàu cảm xúc, những từ ngữ giàu sức gợi. Hệ thống ngôn từ và hình ảnh đó đã góp phần làm cho hình tượng người nông dân nghĩa sĩ hiện lên với vẻ đẹp bình dị, gần gũi mà thiêng liêng cao quý. Bằng lối dùng các từ ngữ diễn tả hoạt động nhanh, mạnh, dứt khoát, với một giọng văn hăm hở, dồn dập và với các chi tiết chân thực, sinh động, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một hình tượng người nghĩa sĩ nông dân lam lũ mà cao đẹp, bình thường mà vĩ đại. Đậy là hình tượng người nông dân vào loại đẹp nhất trong lịch sử vàn học Việt Nam từ trước đến nay.
Câu 3. Tiếng khóc bi tráng của tác giả xuất phát từ nhiều nguồn cảm xúc. Theo anh (chị) đó là những cảm xúc gì? Vì sao tiếng khóc đau thương này lại không hề bi lụy.
- Nỗi xót thương đối với người liệt sĩ phải hi sinh sự nghiệp dang dở, ra đi khi chí nguyện chưa thành.
- Nỗi xót xa của gia đình mất người thân, với những mẹ già, vợ trẻ.
- Nỗi căm hờn những kẻ đã gây ra nghịch cảnh éo le hòa chung với tiếng khóc uất ức nghẹn ngào trước cảnh đau thương của đất nước, của dân tộc.
=> Tiếng khóc thương của nhà thơ không chỉ gợi nỗi đau mà cao hơn còn khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí tiếp nối sự nghiệp dang dở của những người nghĩa sĩ. Tiếng khóc tuy bi thiết nhưng không đượm màu tang tóc, thê lương kéo dài bởi nó mang âm hưởng của niềm tự hào, sự khẳng định về ý nghĩa bất tử của cái chết vì nước, vì dân mà muôn đời sau con cháu vẫn tôn thờ.
Câu 4. Sức gợi cảm mạnh mẽ của bài văn tế chủ yếu là do những yếu tố nào? Hãy phân tích một số câu tiêu biểu.
- Bài văn tế sở dĩ có được sức biểu cảm mạnh mẽ, trước hết bởi nó biểu hiện những cảm xúc chân thành, sâu nặng và mãnh liệt của nhà thơ. Những câu văn như: Đau đớn bấy ... dật dời trước ngõ .
- Hơn thế nữa bài văn tế còn có giọng điệu rất đa dạng và đặc biệt gây ấn tượng ở những câu văn bi tráng, thống thiết như: Thà thác mà đặng câu địch khái ... trôi theo dòng nước đổ.