Soạn bài Ôn tập phần văn học- Soạn văn lớp 11
1. Thơ mới khác với thơ trung đại như thế nào?
Thơ mới khác thơ trung đại ở chỗ được giải phóng thoát ra ngoài tính quy phạm chặt chẽ với hệ thống ước lệ có tính phi ngã, khiến con mắt thi nhân được tiếp xúc trực tiếp với thế giới để quan sát và khám phá (thế giới thiên nhiên, xã hội và thế giới tâm hồn con người. Thơ mới thể hiện mạnh mẽ “cái tôi” cá nhân với những suy nghĩ, những tình cảm, cảm xúc mới .mẻ, thanh tân.
2. Những nội dung cơ bản và đặc điểm nghệ thuật chủ yếu của các bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, Hầu Trời của Tản Đà? Làm rõ tính chất giao thời (giữa văn học trung đại và hiện đại) về nghệ thuật của các tác phẩm nói trên.
- Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu: Tâm thế và tư thế tuyệt đẹp của người anh hùng trong buổi lên đường tìm phương cứu nước.
Cảm xúc trữ tình nồng đậm, giọng thơ tâm huyết sục sôi có sức lôi cuốn mạnh mẽ.
- Bài thơ Hầu Trời của Tản Dà
Kể chuyện “Hầu Trời” tác giả tự biểu hiện “cái tôi” ngông, phóng túng, tự ý thức về tài năng giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời.
- Có nhiều sáng tạo trong hình thức nghệ thuật: thể thất ngôn trường thiên khá tự do, giọng điệu thoải mái tự nhiên, ngôn ngừ giản dị, sông động, hóm hỉnh.
Nhìn chung, ở hai bài thơ vừa nóì về mặt nội dung đã có những nét mới nhưng về thể thơ, thi pháp cơ bản vẫn thuộc phạm trù văn học trung đại.
3. Qua việc phân tích, so sánh các bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, Hầu Trời của Tản Đà, Vội vàng của Xuân Diệu, hãy làm sáng tỏ quá trình hiện đại hóa thơ ca thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Giai đoạn đầu (từ đầu thế kỉ XX đến khoảng năm 1920) thành tựu quan trọng hơn cả của vãn học là thơ ca của các chí sĩ cách mạng tiêu biểu là Phan Bội Châu. Nội dung tư tưởng trong sáng tác của những nhà thơ này đổi khác so với thơ ca thế kỉ XIX trước đó nhưng về mặt nghệ thuật vẫn thuộc phạm trù trung đại vì được viết theo phi pháp trung đại. Điều này thể hiện rõ trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu. Trong bài thơ này, vẻ đẹp hào hùng lãng mạn của nhà cách mạng buổi lên đường tìm phương cứu nước là lẽ sống mới, quan niệm mới về chí làm trai nhưng được thể hiện bằng thi pháp và ngôn ngữ văn học trung đại.
- Giai đoạn hai (khoảng từ 1920 đến 1930): Văn học thời kì này đã đổi mới đạt những thành tựu đáng ghi nhận, đã có tính hiện đại nhưng những yếu tô' của thi pháp văn học trung đại vẫn còn khá phổ biến nhất là trong thi ca.
Bài thơ Hầu Trời của Tản Đà thể hiện rõ tính chất vừa nói. Trong bài thơ này, “cái tôi” cá nhân phóng túng, tự ý thức về tài năng giá trị đích thực của mình và khao khát tự khẳng định mình đã xuất hiện, ơ đây, thi sĩ cũng đã bộc lộ một quan niệm mới mẻ về nghề văn. Cách chia khổ thơ ở đây cũng chưa từng thấy trong thơ ca trung đại. Tuy nhiên, cái tôi cá nhân phóng túng của Tản Đà vẫn cồn phảng phất tinh thần cái ngông của các nhà thơ cuối thời trung đại như Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương. Vì vậy bài thơ Hầu Trời vẫn chưa được xem là hiện đại và thơ ca của Tản Đà có thể xem như cái gạch nôi giữa hai thời đai văn học của dân tộc: thời trung đại và thời hiện đại.
- Giai đoạn ba (khoảng 1930 đến 1945) nền văn học nước nhà đả hoàn thành quá trình hiện đại hóa. Phong trào thơ mới dẩy ỉên từ năm 1932 được đánh giá là “một cuộc cách mạng trong thơ ca” (Hoài Thanh — Thi nhân Việt Nam). Các bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Tương tư của Nguyễn Bính được xem là những thành tựu tiêu biểu thể hiện rõ những đặc trưng của thơ mới. Đây là tiếng nói nghệ thuật của “cái tôi” tự giải phóng, bứt phá khỏi hệ thô'ng ước lệ của thi ca trung đại, trực tiếp quan sát thế giới là nội tâm mình bằng cặp mắt cá nhân xanh non tươi mới, đồng thời cảm thấy bơ vơ, cô đơn trước vũ trụ và con người.
4. Nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của các bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Tương tư của Nguyễn Bính, Chiều xuân của Anh Thơ.
Trả lời:
Nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của các bài thơ:
a) Vội vàng của Xuân Diệu
- Vội vàng, đúng như cái tiêu đề của nó, là lời giục giã hãy sống hết mình, hãy yêu say từng phút giây của tuổi trẻ, hãy thưởng thức bằng tất cả khát khao những ngon ngọt của cuộc đời.
- Vội vàng là một bài thơ rất Xuân Diệu. Xuân Diệu ở trái tim sôi sục, ở cặp mắt xanh non háo hức, ở sự khẳng định "cái tôi" trong quan hệ gắn bó với đời, ở nhịp thơ hăm hở, cuống quýt, ở hình ảnh rất táo bạo đầy rẫy cảm giác và có tính sắc dục, ở cú pháp "rất Tây" và lối qua hàng hết sức thoải mái.
b) Tràng giang của Huy Cận
- Tràng giang thấm đẫm một nỗi buồn. Mỗi khổ thơ thực chất là một sự triển khai khác nhau của nỗi buồn đó và thường được gợi lên bằng cách đối lập giữa cái mênh mông cao rộng như vô hạn với cái nhỏ bé, mong manh, ơ bài thơ này, có lẽ Huy Cận không miêu tả cảnh vật theo một trật tự nhất định. Dường như tác giả không có ý định khắc hoạ một bức tranh đầy đủ, hài hoà qua các khổ thơ, mà tất cả chỉ nhằm tô đậm ở người đọc ấn tượng về nỗi buồn đìu hiu, xa vắng trải dài vô tận theo không gian và thời gian.
- Tràng giang có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật.
+ Thể thơ thất ngôn trang nghiêm, cổ kính với cách ngắt nhịp quen thuộc (4/3) tạo nên sự cân đối, hài hoà. Thủ pháp tương phản được sử dụng triệt để: hữu hạn / vô hạn; nhỏ bé / lớn lao; không / có,..
công các loại từ láy: láy âm (tràng giang, đìu hiu, chót vót, lơ thơ,...), láy hoàn toàn (điệp điệp, song song, lớp lớp,...). Các biện pháp tu từ: nhân hoá, ẩn dụ, so sánh,...
c) Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Nội dung bài thơ thể hiện nỗi buồn, niềm khao khát của một con người tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu con người. Bài thơ đẹp như thế, trên thực tế lại được sáng tác khi nhà thơ ở trong một hoàn cảnh thật tối tăm, tuyệt vọng (bệnh tật giày vò, nồi ám ảnh về cái chết, về sự xa lánh của người đời). Điều đó khiến ta thêm thương xót và cảm thông với số phận của tác giả, thêm cảm phục một con người đầy tài năng và nghị lực, con người đã dũng cảm vượt lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã để sáng tác ra những vần thơ tài hoa về tình đời, tình người.
Có thể nói, Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ về tình yêu - tình yêu của Hàn Mặc Tử với Hoàng Thị Kim Cúc. Xuyên qua sương khói hư ảo của tình yêu mơ mộng là tình quê, là tình yêu thiết tha đằm thắm với đất nước, quê hương. Với việc khơi gợi lên tình cảm yêu thương chung của nhiều người như thế, bài thơ diễn tả tâm trạng riêng của tác giả lại tạo được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong tâm hồn của bao thế hệ người đọc.
- Ở bài thơ này, tứ thơ bắt đầu với cảnh đẹp thôn Vĩ bên dòng sông Hương, từ đó khơi gợi liên tưởng thực ảo và mở ra bao nhiêu nỗi niềm cảm xúc, suy tư về cảnh và người xứ Huế với phấp phỏng những mặc cảm, uẩn khúc, niềm hi vọng, niềm tin yêu.
Bút pháp của nhà thơ sử dụng trong bài thơ này kết hợp hài hoà điệu tả thực, tượng trưng, lãng mạn và trữ tình. Cảnh đẹp xứ Huế đậm nét tả thực mà lại có tầm cao tượng trưng. Sự mơ mộng làm tăng thêm sắc thái lãng mạn. Nét chân thực của cảm xúc làm đậm thêm chất trữ tình.
d) Tương tư của Nguyễn Bính
Bài thơ thể hiện nỗi nhớ thương đơn phương da diết của một tình nhân. Từ đó, bài thơ gợi sự đáng yêu, đáng quý của tình yêu, đồng thời cũng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người.
Thơ Nguyễn Bính có một điệu riêng. Bài thơ này cũng vậy. Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian, thơ Nguyên Bính đa đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương cùa quê hương đất nước và một tình người đằm thắm, thiết tha.
e) Chiều xuân của Anh Thơ
Bài thơ là một bức tranh mùa xuân vào buổi chiều - tiêu biểu cho cảnh xuân nơi đồng quê miền Bắc nước ta. Bài thơ mạnh ở lối tả. Không tả tỉ mỉ chi tiết mà quan sát rộng, măc dù thê vẫn muốn thâu tóm từ linh hồn của cảnh. Có thể nhận xét chung rằng bức tranh buổi chiều xuân khá yên ả. Thậm chí có phần hơi vắng lặng nữa.
Bài thơ tả cảnh nhưng lại gợi ra rất rõ cái không khí và nhịp sống muôn đời, ở nông thôn ta thời trước, đó là sự bình yên. Con đò nằm biếng lười, quán vắng, những cánh bướm rập rờn, những đàn trâu thong thả,... tất cả đều có dáng khoan thai. Trong bài thơ, thi sĩ đã sử dụng rất nhiều từ láy để dựng cảnh, hay nói đúng hơn là để gợi cái trạng thái tinh thần của cảnh: mưa thì êm êm, quán tranh đứng im lìm, hoa xoan rụng tơi bời, đàn sáo mô vu vơ, mấy cánh bướm rập rờn, những trâu bò thong thả,... Trong các từ láy đã nêu, trừ từ tơi bời, các từ láy còn lại đều là những từ láy có tính chất giảm nhẹ: êm êm, vu vơ, rập rờn, thong thả,... và hoặc thì diễn tả trạng thái thụ động hoặc thì diễn tả trạng thái thụ động thì diễn tả trạng thái đều đều của chủ thể. Rõ ràng trong tổng thể bài thơ, chính sự kết hợp của những từ láy này đã giúp thể hiện nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, yên ả, thanh bình của cảnh chiều xuân cũng như nhịp sống khoan thai nơi đồng quê của tác giả.
5. Tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của các bài thơ Chiều tối, Lai Tân của Hồ Chí Minh; Từ ấy, Nhớ đồng của Tố Hữu?
a) Chiều tối của Hồ Chí Minh
Bài thơ rất tiêu biểu cho thơ trữ tình Hồ Chí Minh: nhà thơ không trực tiếp bộc lộ cảm nghĩ nội tâm mà biểu hiện qua cách cảm nhận hình ảnh, cảnh vật khách quan. Qua bức tranh cảnh vật, ta thấy được những nét đẹp tâm hồn của một nhà thơ - chiến sĩ: lòng yêu thiên nhiên, con người, yêu cuộc sống, phong thái ung dung tự chủ và niềm lạc quan, nghị lực kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, tối tăm.
- Nghệ thuật tả cảnh trong bài thơ vừa có những nét cổ điển (bút pháp chấm phá, ước lệ với những thi liệu cũ) vừa có nét hiện đại (bút pháp tả thực sinh động với những hình ảnh dân dã, đời thường). Bài thơ chủ yếu là gợi tả chứ không phải là miêu tả, vì thế mà có thể cảm nhận tính chất hàm súc của thơ rất cao.
- Ngôn ngữ trong bài thơ được sử dụng rất linh hoạt và sáng tạo. Một số từ ngữ vừa gợi tả lại vừa gợi cảm (quyện điểu, cô vân). Biện pháp láy âm vắt dòng ở câu 3 và câu 4 tạo nhịp thơ khoẻ khoắn. Ngoài ra bài thơ có những chữ rất quan trọng, có thể làm "sáng" lên cả bài thơ, ví như chữ "hồng" trong câu thơ cuối chẳng hạn.
b) Lai Tân của Hồ Chí Minh
- Bài thơ cho thấy hiện trạng đen tối, thối nát của một xã hội tưởng là yên ấm, tốt lành.
- Bài thơ có một cách cấu tứ bất ngờ. Ba câu thơ đầu chỉ thuần kể việc. Điểm nút chính là câu thơ thứ tư. Nó làm bật ra toàn bộ tư tưởng của bài. Nó làm bung vỡ tất cả cái ý châm biếm mỉa mai hướng đến sự thối nát đến tận xương tuỷ của cái xã hội Tưởng Giới Thạch.
Bài thơ cũng in đậm cái bút pháp chấm phá của thơ Đường. Lời thư ngắn gọn, súc tích. Không cầu kì câu chữ, nhưng có thể nói: chỉ với bốn câu thơ ngắn, nhà thơ đã vẽ nên cái bản chất của cả một chế độ xã hội mục nát đến vô cùng. Sức chiến đấu, chất "thép" của bài thơ nhẹ nhàng mà quyết liệt chính là ở đó.
c) Từ ấy của Tố Hữu
Bài thơ là niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cách mạng. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bàng' những hình ảnh tươi sáng, bằng các biện pháp tu từ gợi cảm (nhất là biện pháp tu từ ẩn dụ) và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.
Nhạc điệu của bài thơ trước hết được tạo ra từ thể thơ thất ngôn - vốn mang âm điệu trang trọng. Cách ngắt nhịp trong bài thơ liên tục thay đổi qua các câu thơ, ví dụ: Từ ấy trong tôi/bừng nắng hạ... Hồn tôi/là một vườn hoa lá... Gần gũi nhau/thêm mạnh khối đời... Hệ thống vần cuối của các câu thơ cũng rất phong phú, có sức vang ngân, bởi nó chủ yếu là các âm mở, như: hạ - lá; người - nơi - đời ; nhà - pha,...
d) Nhớ đồng của Tố Hữu
- Bài thơ là niềm yêu quý thiết tha và nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với quê huơng, đồng thời thể hiện niềm say mê lí tưởng và khát khao tự do, khát khao hành động của nhà thơ.
- Bài thơ dùng nhiều hình ảnh ẩn dụ, nhiều biện pháp điệp (điệp từ, điệp cú pháp), điệu thơ nhẹ nhàng, ngôn từ trong sáng, thiết tha, giàu sức lôi cuốn.
Những câu còn lại học sinh đọc kĩ lại các gợi ý học bài đã có và tự củng cố ôn tập những kiến thức đã học.