Soạn văn hay: Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu - Ngữ văn 9
Bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu là một trong những tác phẩm quan trọng trong chương trình Ngữ Văn 9. Sau đây là bài soạn phân tích bài thơ đồng chí, bao gồm phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ đồng chí và phân tích khổ thơ cuối bài đồng chí cho các bạn học sinh tham khảo!
Bài làm
Trong những năm tháng đấu tranh chống kẻ thù xâm lược của dân tộc, biết bao nhiêu hình ảnh người lính đã được đưa vào thơ, văn để ca ngợi tinh thần đấu tranh dũng cảm, bất khuất của các anh. Nổi bật trong số đó là hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ - những người nông dân áo vải sẵn sàng tham gia vào cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước - trong bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu. Bài thơ không chỉ nói lên tình đồng đội, đồng chí của những người chiến sĩ mà còn trở thành khúc ca khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước trong thời bình khi nhớ về những năm tháng hào hùng của dân tộc.
Mở đầu bài thơ, tác giả cho biết hoàn cảnh ra đi cứu nước của những người lính:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"
Chiến tranh cứ đột ngột xảy đến, không báo trước với một ai, và thế là từ khắp mọi miền của Tổ quốc, những con người yêu nước sẵn sàng đứng lên để đánh bại kẻ thù. Trong số đó có những người nông dân áo vải, họ vốn xuất thân từ những miền quê khác nhau. Người thì đến từ vùng núi, người thì ở ven biển. Hai cụm từ đối sóng "nước mặn đồng chua" và "đất cày lên sỏi đá" gợi hình ảnh hai miền quê nghèo, một nơi gần biển với nước mặn, đồng chua chẳng hoa màu nào có thể lên được, nơi còn lại thì là một vùng đất khô cằn, đầy sỏi đá. Tất cả như gợi lên một hoàn cảnh chung của những người lính, đó là sự nghèo túng, nghèo khổ. Cụm từ "anh với tôi" như kéo khoảng cách giữa những người lính trở nên gần gũi hơn. Họ là những con người khác nhau, đến từ những vùng đất khác nhau, có cuộc sống khác nhau nhưng lại cùng chung một lí tưởng lớn lao: "Làm cho đất nước sạch bóng quân thù". Có thể nói, bốn dòng thơ đầu đã nêu ra một cách rất giản dị về xuất thân của những người lính. Câu chữ của nhà thơ tuy mộc mạc, chân chất nhưng lại rất dễ đi vào lòng người.
Hai câu thơ tiếp theo cho thấy sự thân thiết hơn của những người lính từ khi bắt đầu làm nhiệm vụ:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"
Hằng ngày, khi làm nhiệm vụ, ngoài cây súng kề sát vai thì các anh không hề đơn độc mà còn có những người đồng đội "đầu sát bên đầu" cùng chia sẻ những vất vả, khó khăn. Hình ảnh "đêm rét chung chăn" thể hiện tình yêu thương giữa những người lính với nhau. Trong đêm làm nhiệm vụ với màn sương rét buốt, họ chia sẻ cho nhau từng mảnh chăn, đắp chung cùng nhau để vượt qua cái lạnh khắc nghiệt của tự nhiên. Chính sự chia sẻ ấy khiến cho những con người vốn xa lạ trở thành tri kỉ của nhau. Đến đây, nhà thơ phải thốt lên:
"Đồng chí!"
Câu thơ đặc biệt chỉ có hai từ "đồng chí" kết hợp cùng dấu chấm cảm thể hiện sự thiêng liêng của tình đồng chí, đồng đội. Có lẽ vì thế mà nhà thơ Chính Hữu đã dành cả một dòng cho hai chữ đặc biệt này. Chấp nhận lên đường đi lính cũng là lúc các anh phải chấp nhận rằng mình phải rời xa làng quê thân thuộc, thân thương của mình:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Căn nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"
Rời xa mảnh đất nơi "chôn rau cắt rốn", người lính đành gửi lại ruộng nương cho những người bạn ở quê nhà. Hình ảnh "giếng nước, gốc đa" là hình ảnh tượng trưng của làng quê Việt Nam, chúng được nhân hóa đang "nhớ" những người lính xa nhà. Chắc hẳn ở nơi quê nhà, không chỉ những người thân mà cả những sự vật vô tri vô giác cũng đang mong ngày các chiến sĩ trở về trong vinh quang.
Hai câu thơ tiếp theo khắc họa cụ thể những khó khăn mà người lính gặp phải trong quá trình làm nhiệm vụ:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi"
Những cơn sốt rét rừng - căn bệnh nguy hiểm không chừa một ai - có thể lấy đi tính mạng của những người chiến sĩ bất cứ lúc nào. Người lính không chỉ phải đối mặt với kẻ thù mà còn phải đối mặt với vô vàn khó khăn khác như thiếu thốn vật chất, những căn bệnh nguy hiểm... Đối mặt với những khó khăn này, ta thấy được tình đồng chí của các anh thật đáng ngưỡng mộ:
"Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!"
Những anh bộ đội cụ Hồ san sẻ cho nhau từ những điều nhỏ nhặt nhất, trong những khó khăn vẫn sáng lên nụ cười người lính. Chỉ cần nắm tay nhau, họ có thể vượt qua tất cả!
Ba câu thơ cuối của bài thơ là hình ảnh tả thực đầy ý nghĩa:
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo"
Vẫn là những đêm làm nhiệm vụ, vẫn là canh gác trong khu rừng hoang vu đầy hiểm nguy rình rập nhưng ở đây, ta thấy người lính có một tâm hồn đầy thơ mộng. Vẻ đẹp tâm hồn người lính được thể hiện qua hình ảnh "Đầu súng trăng treo". Người lính đứng canh gác với cây súng luôn vác trên vai, đôi lúc tưởng như ánh trăng đang treo trên đầu súng, hình ảnh thơ đầy thi vị, trở thành một trong những hình ảnh đẹp nhất về người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Qua đó, ta có thể thấy được tài năng sử dụng nghệ thuật cùa tác giả.
Chiến tranh đã qua đi nhưng mỗi khi nghĩ về nó, về những năm tháng gian khổ của dân tộc, ta vẫn không thể nào quên được những hình ảnh đầy bất khuất, oanh liệt của những người lính. Dù cho họ đã ra đi mãi mãi nhưng mỗi chúng ta vẫn luôn nhớ về họ với sự biết ơn vì đã đánh bại kẻ thủ, giành lại nền độc lập, tự do cho đất nước. Bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu sẽ mãi là một bài thơ hay nhất về hình ảnh những người anh hùng này.
Các bạn có thể dựa vào bài viết trên để Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Mong rằng các bạn sẽ đạt được kết quả tốt!