Soạn bài: Truyện Kiều - Phần Nỗi thương mình (Siêu ngắn)
a. Vị trí đoạn trích: Từ câu 1229 – 1248 trong Truyện Kiều.
b. Nội dung đoạn trích:
“Toàn bộ truyện Kiều là một bi kịch. Đây là một bi kịch nhỏ trong bi kịch lớn ấy” ( Lê Trí Viễn). Thúy Kiều quyết định bán mình chuộc cha, trao lại mối tình đầu dở dang cho em mình để trả nghĩa chàng Kim. Khi mã Giám Sinh đưa Kiều đến nhà chứa của Tú Bà, Thúy Kiều rút dao tự vẫn nhưng không thành, Mụ Tú bà đưa Kiều ra lầu Ngưng Bích. Kiều đã quyết liệt chống lại âm mưu biến nàng thành kĩ nữ nhưng Sở Khanh – tay sai Tú Bà lại một lần đưa Kiều vào bẫy của Tú Bà và buộc phải ra tiếp khách. Thúy Kiều – một người phụ nữ có số phận hẩm hiu: Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần Kiều rơi vào bi kịch nhân cách nàng đã tủi thân, đau khổ nghĩ về mình và tự thương xót cho số phận mình. Đoạn trích nỗi thương mình thể hiện lên điều đó.
Câu 1 (trang 108 sgk Ngữ văn 10 Tập 2):
Bố cục đoạn trích: có thể chia làm 3 phần:
- Phần 1 (4 câu thơ đầu): Tình cảnh trớ trêu của Kiều ở lầu xanh.
- Phần 2 (8 câu thơ tiếp theo): Tâm trạng, nỗi niềm của Kiều.
- Phần 3 (8 câu thơ cuối): Bi kịch tâm trạng của Thúy Kiều.
Câu 2 (trang 108 sgk Ngữ văn 10 Tập 2):
Ước lệ tượng trưng là thủ pháp nghệ thuật được sử dụng khá phổ biến trong thơ ca trung đại.
- Trong đoạn trích này bút pháp ước lệ được thể hiện rõ qua hình ảnh: bướm ong, cuộc say, trận cười, các điển tích Tống Ngọc, Trường Khanh, mưa Sở, mây Tần.
⇒ Số phận éo le, bẽ bàng.
⇒ Tình cảm của tác giả đối với nhân vật: thương xót, cảm thông, trân trọng nhân vật.
Câu 3 (trang 108 sgk Ngữ văn 10 Tập 2):
Các dạng thức đối xứng khác nhau được sử dụng trong đoạn trích và giá trị nghệ thuật của chúng.
- Đối xứng trong bốn chữ: bướm lả/ong lơi, lá gió/cành chim, dày gió/dạn sương, bướm chán/ong chường, gió tựa/hoa kề ⇒ nổi bật thân phận bẽ bàng, cảm giác đau đớn, xót xa của nhân vật.
- Tiểu đối trong khuôn khổ một câu thơ: khi tỉnh rượu/lúc tàn canh, nửa rèm tuyết ngậm/bốn bề trăng thâu ⇒ Nhấn mạnh sự liên tục, kéo dài của sự vật hay cái mênh mông của không gian.
- Thủ pháp đối cứng xuất hiện giữa hai câu lục/bát: Khi sao phong gấm rủ là/ Giờ sao tan tác như hoa giữa đường (đối lập gay gắt giũa quá khứ êm đềm, hạnh phúc và hiện tại nghiệt ngã), Mặc người mưa Sở mây Tần/ Những mình nào biết có xuân là gì (đối lập mang ý nghĩa so sánh giữa người với ta).
⇒ Mỗi cặp đối xứng tạo nên cái nhìn đa chiều về nỗi niềm thương thân xót phận của nhân vật.
Câu 4 (trang 108 sgk Ngữ văn 10 Tập 2):
Nỗi thương mình của nhân vật có ý nghĩa mới mẻ đối với văn học trung đại.
- Thể hiện sự tự ý thức của con người cá nhân trong lịch sử văn học trung đại.
- Thức tỉnh về quyền sống của cá nhân “giật mình mình lại thương mình xót xa”.
- Chủ động ý thức về phẩm giá, về nhân cách bản thân mình.
Câu 5 (trang 108 sgk Ngữ văn 10 Tập 2):
Đoạn trích này đã đề cao nhân cách, phẩm giá của Kiều khi diễn tả sâu sắc nỗi buồn, nỗi đau khổ và chán chường của nàng Kiều phải cam chịu phận lưu đày giữa chốn lầu xanh.
⇒ Tâm hồn của Thúy Kiều ánh lên vẻ đẹp của sự cao thượng, trong trắng dù nàng đã phải sống giữa chốn lầu xanh.