Hướng dẫn soạn bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn
Câu 1. Mở đầu Bài ca phong cảnh Hương Sơn là câu thơ Bầu trời cảnh Bụt. Anh( chị) hiểu câu thơ này như thế nào? Câu này gợi cảm hứng gì cho bài hát nói? Không khí tâm linh của cảnh sắc Hương Sơn thể hiện ở những câu thơ nào?
Một cái nhìn bao quát về cảnh vật khi Chu Mạnh Trinh đến với Chùa Hương được thể hiện ớ câu: “Bầu trời cảnh Bụt”. Nhà thơ chỉ ra cảnh tượng “Kìa non non nước nước mây mây”. Đó là không gian của núi non, sông nước, mây trờiệ Núi non soi mình bên dòng suối Yếnẵ Mây trời lồng lộng trên quần thể Hương Sơn. Cái thú đến với Hương Sơn là đến với “Bầu trời cảnh Bụt” là sự ao ước của bao người trong đó có nhà thơ (Thít Hương Sơn ao ước bấy lâu nay). Cảnh vật hiện ra là cảnh của thiên nhiên và cũng là cảnh tôn giáo. Lòng ngưỡng mộ với cánh Phật cộng với cảm nhận tinh tế của một nhà thơ, Chu Mạnh Trinh đã bật lên câu hỏi “Đệ nhất động hỏi là đây có phải?"
Giọng thơ khoan thai, nhẹ nhàng như ru, như mời mọc. Tâm hồn thi sĩ như bâng khuâng, bảng lảng trong tĩnh tại của tâm linh mà vẫn tỉnh táo lạ thường. Con người đến nơi này như rũ sạch mọi thứ phàm tục. Bốn câu thơ đầu tạo cảm xúc cho bài thơ hát nói.
Cảnh vật trong bài hát nói mang màu sắc tôn giáo (đạo Phật) với tất cả tấm lòng ngưỡng mộ trang nghiêm nhưng gắn kết với lình yêu cái đẹp thiên nhiên của nhà thơ, với những cảnh “thỏ thẻ rừng mai”, “lững lờ khe Yến”, “lồng bóng nguyệt”, “uốn thang mây”. Sự hòa quyện giữa cảm hứng tôn giáo trang nghiêm với lòng yêu quê hương đất nước là giá trị nhân bản cao đẹp trong tâm hồn thi nhân. Nó tạo ra sự thanh cao, tinh khiết, lâng lâng của hồn người. Cảm hứng tôn giáo khòng phái là sự mê tín dị đoan mà là một nhu cầu tinh thần mang tính người của một bút pháp tài hoa.
Câu 2. Nhà thơ tả cảm giác của khách văn cảnh Hương Sơn khi nghe tiếng chuông như sau:
Thỏang bên tai một tiếng chày Kinh,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Hãy nhận xét về cách cảm nhận phong cách thiên nhiên của người xưa.
Âm hưởng các câu thơ khoan thai, tưởng như tâm trạng lầng lâng thư thái của khách nhàn du dạng ung dung chiêm ngưỡng thiên nhiên và di tích thắng cảnh. Hòa vào khung cảnh thiên nhiên kì ảo ấy, con người bất chợt “giật mình” nhận ra cái nhỏ bé, tầm thường hữu hạn của cuộc đời “tang hải”. “Khách tang hải giật mình trong giấc mộng” là như vậy.
Du khách từ cái thế giới đầy biến động ngoài kia vào đây dường như cũng bừng ngộ, nghĩa là cũng nhập vào làm một với cảnh Bụt chốn này. Con người đi vào cảnh thảng thốt với tiếng chày kình. Tất cả đều cởi bỏ mọi phiền luỵ của trần gian để hoà nhập vào cái không khí linh thiêng nơi chốn Phật này. Tại khoảnh khắc ấy, cả chim, cá và người đểu dường như thoát tục. Cái sinh khí Hương Sơn vô hình là thế, vậy mà thi nhân đã thấy nó hiện hữu trong tất cả, hoà tan trong tất cả. Đó đúng là một sự nắm bắt tinh tế, thần tình.
Câu 3. Phân tích nghệ thuật tả cảnh của tác giả, đặc biệt chú ý đến việc tả không gian, màu sắc, âm thanh.
Cách miêu tả của nhà thơ làm cho cảnh vật trở nên có hồn, phảng phất không khí thần tiên, xa lánh với cõi trần đầy bụi bặm.
Cách miêu tả làm cho bức tranh Hương Sơn nên thơ, nên hoạ:
“Nhác trông lên [...] gấm dệt”
Những câu thơ nhất mực trong sáng. Đó là sản phẩm của một cảm hứng thẩm mĩ cao độ. Yêu cái đẹp cúa cảnh vật đã gắn liền với lòng yêu quê hương đất nước.
Như vậy, Hương Sơn phong cảnh quả đúng là một bài thơ đặc sắc. Trong bài, nhà thơ ít dùng từ ngừ Hán Việt khó hiểu hay điển tích cầu kì, mà chỉ sử dung tiếng Việt dầy nhuần nhị giàu hình tượng mà cũng giàu nhạc tính. Nếu bàn tay tạo hóa khéo xếp đặt làm nên một vùng gấm hoa của đất nước kì thú, hữu tình thì chính Chu Mạnh Trinh, với ngòi bút tài hoa của mình, đã để lại cho đời sau, cũng phong cảnh ây, nhưng bằng thơ.