Dàn ý tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ chi tiết cùng bài văn mẫu
TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ
Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” được trích trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn. Với thể loại ngâm khúc, bài thơ đã thể hiện một cách sâu sắc và thấm thía nỗi khổ đau, tình cảnh cô đơn lẻ loi của người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Đoạn trích còn mang ý nghĩa lên án chiến tranh phi nghĩa của chế độ phong kiến đương thời, bộc lộ sự cảm thông của nhà thơ với hoàn cảnh và khát khao của người chinh phụ.
Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
DÀN Ý CHI TIẾT PHÂN TÍCH TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ
Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
-
Tác giả: Đặng Trần Côn, ông sinh ra tại Hà Nội.
-
Tác phẩm: Miêu tả hoàn cảnh và tâm trạng người chinh phụ phải sống trong cảnh cô đơn, buồn khổ đợi chồng chinh chiến nơi xa mà biệt vô âm tín.
Thân bài
* Tám câu thơ đầu: Thời gian chờ đợi mỏi mòn của người chinh phụ.
-
Hai câu thơ đầu: Hành động vô thức của người chinh phụ, hành động lặp đi lặp lại bởi tâm trí đã để nơi biên ải xa nên tất cả việc làm đều không kiểm soát.
-
Hai câu tiếp: Sự ngóng trông chim khách báo tin lành
-
Hình ảnh ngọn đèn: Gợi sự vô tình của thời gian, người chinh phụ cô đơn một mình đối diện với ngọn đèn vô tri, vô giác lòng mang đầy nỗi sầu vì không được trọn vẹn hạnh phúc bên người yêu.
-
Gà eo óc: Tiếng gà âm thanh duy nhất trong đêm tối nhưng lại chỉ thoáng qua, nhanh chóng yên tĩnh.
-
Hòe phất phơ: Hình ảnh gợi cô đơn, quạnh quẽ, hiu quạnh của người chinh phụ.
Xem thêm:
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ: Nội dung bài thơ, hoàn cảnh sáng tác, dàn ý phân tích
Dàn ý phân tích 8 câu đầu bài chinh phụ ngâm
* Tám câu thơ cuối: Gợi lên sự thương nhớ người chồng của người thiếu phụ.
-
Gió đông: hàm chỉ ngọn gió mùa xuân
-
Nghìn vàng: lòng thương nhớ, trân trọng
-
Núi Yên: chỉ nơi chiến trận ngoài biên ải
-
-> Người thiếu nhờ gió mang nỗi nhớ đến chồng mình.
-
Cảnh vật: sương, cành cây, mưa phùn... đượm nỗi buồn. => Thiết tha là nỗi buồn dai dẳng, không lối thoát.
Kết bài:
- Đoạn trích thể hiện cung bậc và sắc thái khác nhau sự cô đơn, buồn khổ, khát khao sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ
Mở Bài
Chinh phụ ngâm là khúc ca ai oán của người chinh phụ khi phải mỏi mòn ngóng trông người trai tiền tuyến. Với nhiều nỗi niềm, tâm trạng cô đơn, tủi hờn, đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã lột tả được phần nào tâm trạng của người vợ chờ chồng. Tác phẩm đã nói lên sự chán ghét chiến tranh phi nghĩa, đồng thời thể hiện sự khát khao được yêu thương, được hạnh phúc lứa đôi. Bản dịch đã thể hiện tài năng của tác giả trong việc thể hiện những trạng thái tâm lí vô cùng tinh tế và phức tạp của người vợ nhớ chồng.
Thân Bài
Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh quyền quý, nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập công danh nơi yên ngựa và trở về trong cảnh vinh hoa. Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn và bế tắc cùng cực với một tâm trạng đượm buồn, dai dẳng và da diết. Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã thành công thể hiện tâm trạng cô đơn ấy của người thiếu nữ có chồng chinh chiến nơi xa.
Người chinh phụ mỏi mòn trông ngóng tin chồng nơi chiến trận
Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn khi ra đời đã nhận được sự đồng cảm sâu sắc của rất nhiều người, nhất là những nho sĩ và thiếu phụ đồng tâm trạng. Tác phẩm có nhiều bản dịch, tuy nhiên, bản dịch được cho là của Đoàn Thị Điểm là bản dịch thành công hơn cả. Hình ảnh nổi bật xuyên suốt Chinh phụ ngâm là cảnh người chinh phụ héo mòn ngóng trông chờ đợi người chinh nhân trở về.
Người thiếu phụ cũng từng lấy làm tự hào về tài năng của chồng mình. Dường như, nàng có một chút ngóng trông vào tương lai tươi đẹp, vào công hầu khanh tước với tài năng ấy:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong tiễn bệ rồng
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Thế nhưng, tất cả mong ước xa xưa tan vỡ khi người chinh nhân ra trận. Nàng chờ đợi tin nhạn mà biệt vô âm tín, rơi vào tâm trạng cô đơn, tuyệt vọng và cất lời oán trách. Bằng việc thể hiện tâm trạng của người thiếu phụ, tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là tiếng nói oán trách chiến tranh phi nghĩa đã giày xéo lên hạnh phúc lứa đôi.
Chinh phụ ngâm là một tác phẩm trữ tình, từ đầu đến cuối tác phẩm vẫn chỉ là tâm trạng của nhân vật trữ tình là người chinh phụ. Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được phát triển theo mạch tâm trạng và nỗi nhớ nhung của người thiếu phụ. Nội tâm đầy biến động được tác giả khéo léo diễn tả qua những từ ngữ chỉ ngoại hình, hành động, việc làm của người chinh phụ.
Sự trông đợi mỏi mòn và vô vọng đã khiến nàng trễ nải cả việc điểm phấn tô son, công việc quan trọng nhất của người phụ nữ:
Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng,
Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Nỗi đau buồn của người thiếu phụ trong cảnh mỏi mòn chờ đợi đã khiến nàng như mất hết sức lực, như người mộng du:
Há như ai hồn say bóng lẫn,
Sự chờ đợi vô vọng đã khiến nàng tê liệt cả tinh thần.
Bằng việc miêu tả ngoại hình, dáng vẻ bề ngoài, tác giả đã thành công lột tả được trạng thái tâm lí phức tạp của người thiếu phụ. Dưới ngòi bút tài hoa ấy, nàng hiện lên với vẻ mệt mỏi và buông xuôi, nỗi cô đơn đã giày vò cả tâm thần và thể xác khiến nàng nhạt phấn phai hương. Nỗi cô đơn dường như bao trùm cả lên không gian và thời gian. Trong và ngoài căn phòng đều tràn ngập nỗi buồn tủi, cô đơn.
Chinh phụ ngâm - Khúc ngâm của những buồn thương da diết
Cái vẻ lẻ loi, buồn thương ấy hiện lên thật rõ ràng với hình ảnh:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Giữa cái không gian tĩnh mịch của đêm, tiếng bước cô độc chân chậm rãi từng bước khua vào sàn như gieo vào lòng người cái âm thanh của sự lẻ loi cô độc.
Nỗi đau đớn âm thầm nhưng quá lớn ấy khiến nàng khao khát có sự đồng cảm. Nhưng trong căn nhà vắng chỉ có ngọn đèn đối diện với nàng mà thôi. Liệu ngọn đèn có thấu hiểu được không hay sức nặng của nỗi cô đơn, của sự nhung nhớ lại dồn cả lên nàng.
Ngọn đèn chỉ là vật vô tri vô giác, làm sao hiểu được tâm trạng của nàng:
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Cảnh vật chẳng những không san sẻ mà dường như còn cộng hưởng cùng nỗi sầu của người chinh phụ khiến nàng đau càng đau, sầu càng sầu. Dường như người thiếu phụ thức trắng cả năm canh bởi nỗi nhớ nhung giày vò cả ngày cả đêm:
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Dịch giả đã sử dụng rất hợp lí những từ ngữ thuần Việt với những chữ như "eo óc", "phất phơ", những từ ngữ ấy dùng để tả cảnh nhưng cũng đã gột tả được nỗi cô độc, buồn sầu của người thiếu phụ. Nó vừa là hình ảnh, vừa gợi tâm trạng. Dáng hoè phất phơ kia gợi nên hình ảnh người chinh phụ vật vã trong nhớ nhung giữa đêm khuya lẻ loi. Thời gian khi đợi chờ là thời gian đằng đẵng, vô cùng vô tận. Người chinh phụ cũng vì vậy mà trở nên nhỏ bé và đơn độc trước không gian và thời gian.
Nàng biết nỗi đợi chờ là vô vọng nên đã cố gắng để đưa mình ra khỏi nỗi cô đơn nhưng cũng đành bất lực. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son, gắng gượng dạo nên khúc đàn xưa nhưng nàng nhận ra nàng càng cố gắng vùng vẫy thì càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Nàng chạm đến đâu cũng nỗi đau, cũng nhìn thấy cảnh lẻ loi của chính mình. Soi gương thì đối diện với gương mặt thanh xuân ngày nào đang mỏi mòn chờ đợi và tuổi xuân tươi đẹp đang phũ phàng trôi qua. Khúc đàn loan phượng gợi cho nàng nhớ cảnh chồng vợ chia lìa. Nỗi đau đớn, tủi hờn của người chinh phụ thể hiện nỗi khao khát hạnh phúc lứa đôi chân chính.
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong bài chinh phụ ngâm
Dịch Chinh phụ ngâm, dịch giả đã chọn thể thơ song thất lục bát, một thể thơ dân tộc có khả năng lớn trong việc thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình, nhất là tâm trạng buồn đau, sầu muộn. Dịch giả đã dịch rất thanh thoát nội dung của nguyên tác, đảm bảo được nội dung nguyên tác, thể hiện chân thực nỗi buồn của người thiếu phụ: mãnh liệt, da diết nhưng kín đáo. Chinh phụ ngâm đã đánh dấu một bước tiến vượt bậc của ngôn ngữ văn học dân tộc.
Với tác phẩm này, tiếng Việt đã chứng minh khả năng diễn tả tư tưởng tình cảm một cách sâu sắc, tinh tế. Với tấm lòng thương yêu và sự cảm thông sâu sắc với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, tác giả và dịch giả cất lên tiếng kêu nhân đạo, tiếng kêu phản đối chiến tranh phi nghĩa. Thái độ phản chiến tuy không bộc lộ trực tiếp song lại rất mạnh mẽ.
Kết Bài
"Vì ai gây dựng cho nên nỗi này" là lời oán thán nặng nề nhất trong Chinh phụ ngâm, lời ai oán không mạnh mẽ nhưng uất ức và oán trách. Đó là một trong những giá trị của Chinh phụ ngâm. Nhưng cao hơn cả, tác phẩm là sự tiếp nối xuất sắc cảm hứng nhân đạo của nền văn học dân tộc, một lần nữa, những khao khát hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến lại được ủng hộ. Đề tài về thân phận người phụ nữ lại được góp thêm một tiếng nói mới đầy sức mạnh nhân văn.