Cảm nghĩ của em về Hoàng Lê nhất thống chí ngữ văn 9
Trong chương trình Ngữ văn lớp 9 tập 1, Cunghocvui nhận thấy bài tóm tắt Hoàng Lê nhất thống chí được sự tìm kiếm và quan tâm rất lớn của các bạn học sinh. Do đó, chúng mình đem đến cho các bạn những phân tích văn bản Hoàng Lê nhất thống chí ngắn gọn và đầy đủ nhất sau đây
Hoàng Lê nhất thống chí
I. “Hoàng Lê nhất thống chí” là tiểu thuyết chữ Hán viết theo thể chương hồi như "Tam Quốc điền nghĩa" của Trung Quốc. Tác phẩm của nhiều tác giả trong Ngô gia văn phái, như Ngô Thì Chí (? - ?), Ngô Thì Du (1772 - 1840)..., ở làng Tá Thanh Oai nay thuộc Thanh Oai, Hà Nội. Tác phẩm là một bức tranh hiện thực rộng lờn về xã hội phong kiến Việt Nam, khoảng 30 năm cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX, trong đó hiện lên cuộc sống thối nát của vua quan triều Lê - Trịnh và quá trình phát triển của phong trào Tây Sơn, với hình tượng anh hùng Nguyễn Huệ, đánh thắng thù trong giặc ngoài.
“Hoàng Lê nhất thống chí" có 17 hồi. Dưới đây trích hồi thứ mười bốn viết về Quang Trung đại phá quân Thanh.
II. A-TÓM TẮT
Tôn Sĩ Nghị dẫn quân vào Thăng Long như chỗ không người, định ngày mồng 6 tháng giêng thì xông đến sào huyệt của quân Tây Sơn. Quân kỉ buông lóng, tin về hoạt động của quân Tây Sơn không biết nhiều, lại thêm dân chúng không tuân lệnh vua Lê nên Sì Nghị đâm ra lúng túng...Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ơ Phú Xuân được tin báo, nghe lời trình tấu của cận thần bèn lên ngôi hoàng đế, rồi đích thân thống lĩnh đại quân ra Bắc. Chuẩn bị xong mọi việc, Nguyễn Huệ cho quân ăn Tết sớm, rồi đúng đêm 30 thẳng tiến ra Thăng Long. Giặc trong đồn Hà Hồi xin hàng, Nguyễn Huệ tiến lên chiếm đồn Ngọc Hồi. Trưa ngày mồng 5, Quang Trung Nguyễn Huệ tiến đến Thăng Long. Cả Tôn Sĩ Nghị lẫn vua Lê đều chạy thoát. Hai người gặp nhau ở “cửa ải” bàn cách diệt vua Quang Trung.
B - PHÂN TÍCH
- Bản dịch ra Việt văn của Nguyễn Đức Vân và Kiều Thu Hoạch khá mạch lạc, trôi chảy, và dễ hiểu.
- Về miêu tả sự việc, câu văn khá dài nhưng nhờ tận dụng dấu phẩy để ngắt ý, ngắt vế câu nên sự việc diễn ra khá sinh động, đủ sức lôi cuốn người đọc: “Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván... Hoạn kén hạng lính khỏe đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ “nhất”. Vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc. Mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi... ”
- Để liền mạch văn khi chuyển ý, chuyển việc miêu tả con người, sự việc, tác giả thường dùng các từ: “Lại nói... ”, “Nhắc lại... ”, “Đoạn... ”, “Trước đó...". Đây là cách chuyển mạch theo lối văn xưa.
- Bố cục của Hoàng Lê nhất thống chí theo hình thức tiểu thuyết chương, hồi. Mỗi chương, mỗi hồi dành để miêu tả một sự việc và những nhân vật chính của sự việc ấy. Phần mở đầu và kết luận của mỗi chương, hồi đều là những câu thơ có thể xem là đại ý của toàn đoạn văn. Ví dụ, mở đầu Hồi thứ mười bốn là hai câu có thể xem là đại ý của hồi thứ* 14:
Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài.
Và cuối hồi thứ 14 cũng vậy, cũng có hai câu thơ ghi nhận xét tóm tắt của tác giả về con người và sự việc đã miêu tả:
“... Thực là:
Bờ cõi chưa xong bề tính liệu
Nước non buồn nỗi lúc chia ly”,
- Và để lôi cuốn bạn đọc, tác giả đặt ra vấn đề, khêu gợi sự tò mò bằng câu văn thường thấy ở cuối một chương hay một hồi:
“Chưa biết việc ấy ra sao.
Hãy chờ hồi sau phân giải”.
• về nội dung
1 - Sự thảm hại của bọn xâm lược, và của vua quan phản nước hại dân
a. Diện mạo của binh tướng nhà Thanh
- Hùng hổ kéo quân vào Thăng Long “không mất một mũi tên, như vào chỗ không người”... Binh tướng trỏ nên kiêu căng, buông tuồng.
- Quân lính nhà Thanh: "... tự tiện bỏ cả đội, đi lại lang thang không còn kỉ luật gì cả... ”. Họ đi kiếm củi, đi buôn bán ở các chợ...
- “Bọn tướng tá cùng ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không để ý gì đến việc quân"'. Tất cả đều là những thói quen tối kỵ đối với quân nhân thời chiến.
- Thói kiêu căng, chí thú vào quyền lợi riêng tư, chơi bời hưởng thụ... đều làm mất cảnh giác, sợ chết, và dẫn đến bại vong.
- Tôn Sĩ Nghị ngoài tính kiêu căng, ngạo mạn..., còn phạm vào điều cấm kị trong việc điều binh khiển tưởng: Không điều tra, nghiên cứu lòng dân, lực lượng của quân Tây Sơn, địa thế, địa hình... nơi hắn đưa quân đến. Chính hắn đã nói với Lê Chiêu Thống: “Tự vương trẻ tuổi, chưa từng trải công việc, trước đây tới đón chào ta ở Lạng Sơn, sao không nói cho rõ? Bây giờ, nhân khi ta thắng, đè bẹp ngay lúc chúng đang khốn đốn, há chẳng dễ dàng hơn sao? Nay đã bỏ lỡ cơ hội này, dể chúng có thì giờ thong thả mà bày mưu đặt chước,,, ”
b. Diện mạo của vua quan phản nước, hại dân
- Bất tài, vô tướng, chỉ biết nhờ vào sức mạnh của lực lượng bên ngoài. Đê’ chúa Trịnh chuyên quyền, phải nhờ Tây Sơn “phù Lê diệt Trịnh” nay lại cầu viện quân Thanh.
- Làm cho dân mất hết lòng tin: "... - Xe vua trở về kinh thành, dã gần một tháng. Hiệu lệnh ban ra, chẳng qua mới đến vùng ứng Hòa, Thường Tín... năm lộ mà thôi": vua về nhưng dân không mừng đón, lệnh nước dân không nghe... •
- Bầy tôi thì báo cáo láo: "... Lê Quýnh khai báo ở bên ấy, nói rằng: “Nhiều nơi trong nước ta không chịu theo giặc, người chuộng nghĩa còn nhiều... nếu dược binh sang làm thanh viện thì công việc khôi phục có thể thành: ” ”: vừa nói xâu Quang Trung vừa mời cho được quân Thanh qua...
c. Thất bại nhục nhã
- Chính vì kiêu căng, ngạo mạn, quân kỉ buông tuồng, chỉ nghe báo cáo láo, ngày ngày mải mê yến tiệc... nên khi quân của Quang Trung đánh bất ngờ “những đạo quân Thanh đóng d Hà Hồi, Ngọc Hồi không biết gì cả”.
- Quân Thanh trong đồn Hà Hồi “ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng...”
- Ở đồn Ngọc Hồi : "Quản Thanh chống không nổi, ho chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên thái thú Hiền Châu là sẩm Nghi Đống tự thắt cổ chết ”,
- Tôn Sĩ Nghị thì “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhắm hướng hắc mà chạy... ”
- Vua tôi nhà Lé cũng trốn chạy. Họ gặp nhau ở cửa ải, “cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt. Tôn Nghị Sĩ cũng lấy làm xấu hổ... ”
2 - Hình tượng Nguyễn Huệ ở chương này được dựng lên như một anh hùng dân tộc, tiếp nối truyền thống Ngô Quyền, Lè Hoàn, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuân, Lê Lợi...:
Nhận thức sáng suốt
- Nhận thấy lời thuộc hạ thân tín nói phải là chấp nhận làm theo: “cho đắp dàn trên núi Bân tê cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi...”: Lên ngòi đế chính vị, chính danh trong việc điều binh khiển tướng.
- “Ban lệnh ân xá khắp trong ngoài, dể yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”: Biết cách thu phục nhân tâm, “giữ dược lòng người" không có kẻ phản nghịch là giữ được sức mạnh chính nghĩa.
- Dùng lời ca ngơi truyền thống chống giặc của lổ tiên khuyên dụ quân sĩ như Lí Thường Kiệt đã làm bài thơ Nam quốc sơn hà, như Trần Quốc Tuấn đã viết Hịch tướng sĩ văn... - khen Ngô Thì Nhậm có thể rút quân...
Ý chí quá quyết
- Trước hết, “Vua Quang Trung tự mình dốc xuất dại hình, cả thủy lẫn bộ cùng ra đi”: biểu hiện ý chí một mất một còn với quân giặc
- Ngăn ngừa quân sĩ: “Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”
Tài điều khiển binh tướng:
- Biết giặc kiêu căng, khinh suất là tổ chức đánh nhanh.
- Chọn thềm lính tinh nhuệ...
- Khi tiến đánh một đồn, tuyệt đối giữ bí mật. Quân đánh đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi, “lúc đến sông Thanh Quyết, toán quân Thanh di do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy nốt. Vua Quang Trung liền thúc quân đuổi theo... bắt sống dược hết”: Làm như thế là để triệt đường tin tức, không để cho quân Thanh biết quân của vua đang tiến đánh...
- Dùng mưu cướp tinh thần, nhuệ khí chiến đâu của giặc: "... Lặng lẽ vây kín làng ấy, rồi hắc loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau đã ran để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người... ”...
- Dùng ván phủ rơm thấm nước để ngân tên đạn của quân giặc khi đánh đồn Ngọc Hồi... Trước khi đánh đồn này, vua đã sai quân làm nghi binh để quân lính xua voi giày đạp quân thành Đầm Mực...
- "Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên”'. Thế đánh thần tốc như thế đã khiến quân Thanh hoảng sợ...
Và cái tâm to lớn của Quang Trung:
- Con người đầy nghĩa khí, “là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân, nhưng trên tất cả, Quang Trung có lòng thương người bao dung rộng lớn”.
- Đã một lần ra Bắc dẹp chúa Trịnh, phục lại ngôi vua cho nhà Lê.
- Lần này ra Bắc đánh quân Thanh, chắc hẳn Quang Trung thấu rõ từ tim “cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi”, thế nào cũng có người vĩnh viễn ra đi nên cho mờ tiệc khao quân, cho quân “sửa lễ cúng Tết trước đã” ...
- Đối với Ngô Thì Nhậm người đã cho rút quân khỏi Thăng Long về Tam Điệp, Quang Trung đã không khiển trách mà còn tỏ lời khen ngợi.
- Thương dân, không muôn dân phải liên miên chịu ảnh hưởng chiến tranh: “Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lây làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy...”
III. Hoàng Lê nhất thống chí là một bộ tiểu thuyết lịch sử có giá trị:
- Sắp xếp sự việc trong truyện một cách hợp lí.
- Lời văn kể chuyện giản dị, rõ ràng, mạch lạc... Vào thời điểm đó có lối văn tiểu thuyết như thế đã là tiến bộ.
- Người đọc hiểu rõ hơn về sự việc quân Thanh xâm lược nước ta, bộ mặt thật của Tôn Sĩ Nghị, của vua tôi Lê Chiêu Thống.
- Thấy rõ hơn về trí tuệ, tài năng và đức độ của vị vua anh hùng Nguyễn Huệ - Quang Trung.
Mong rằng bài viết trên của Cunghocvui.com sẽ giúp các bạn có thêm nhiều kiến thức bổ ích!