Đăng ký

Cảm nghĩ của em về bài Chuyện người con gái Nam Xương

3,108 từ

Nguyễn Dữ là người học rộng tài cao, ông sống trong thời gian nhà Lê bắt đầu khủng khoảng, ông ra làm quan không lâu sau đó lui về ở ẩn. Thời gian lui về ở ẩn, ông sưu tầm các truyện dân gian để sáng tác lại thành tập “Truyền kì mạn lục”. Trong số hai mươi truyện của truyền kì mạn lục, nổi bật nhất là tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG

1.    Tác giả, tác phẩm
Nguyễn Dữ (? -?), người huyện Trường Tân, nay là huyên Thanh Miện, tình Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng. Các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Nguyễn Dữ là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật
Truyện ngắn này rút trong tập truyện viết bằng tiếng Hán Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền). Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này.

Soạn bài Chuyện người con gái Nam Xương

2.    Thế loại và chủ đề
-    Đây là truyện có dạng truyền kỳ: các yếu tố hiện thực đan xen với những yếu tố kì ảo tạo nên sự hấp dẫn đối với bạn đọc.
-    Chủ đề của truyện: đề cao, ca ngợi phẩm hạnh của người phụ nữ, đồng thời thể hiện niềm cảm thương cho số phận bất hạnh của họ dưới chế độ phong kiến.

3.    Bố cục
-    Phần thứ nhất (từ đầu cho đến “lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.’’) kể về cuộc hôn nhân giũa Vũ Nương và Trương Sinh, biến cố chia li và phẩm hạnh của Vũ Nương khi chẳng đi chiến trận.
-    Phần thứ hai (từ “Qua năm sau, giặc ngoan cho đến “nhưng việc trót đã qua rồi!) kể về nỗi oan khuất và cái chết thương tâm của Vũ Nương.
-    Phần cuối (từ “Cùng làng với nàng” cho đến hết) kể về cuộc gặp gỡ tình cờ giữa Phan Lang và Vũ Nương trong động của Linh Phi vợ vua biển Nam Hải và việc Vũ Nương được giải oan.

4.    Vẻ đẹp của Vũ Nương
Vũ Nương là người phụ nữ mang vẻ đẹp vẹn toàn về cả ngoại hình và nhân cách.
-    Về ngoại hình: “tư dung tốt đẹp”.
-    Về nhân cách: hiền hậu nết na, người vợ hiền, dâu thảo, người mẹ thương con, người phụ nữ giàu lòng tự trọng
+ Trong mối quan hệ vợ hằng ngày, biết chồng “có tính đa nghi, với vợ phòng ngừa quá súc.” Vũ Nương đã “giữ gìn khuôn phép, không từng lần nào vợ chồng phải đến thất hoà”.
Hai vợ chồng chia li Vũ Nương một lòng nghĩ đến sự an nguy của chồng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. [...] Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thúc tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.”. Xa chồng, Vũ Nương thuỷ chung, tấm lòng luôn tha thiết hướng về chồng: “Ngày qua thống lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được."
Ngay cả khi bị chồng nghi oan, Vũ Nương vẫn nói năng đúng mực, tha thiết bày tỏ nỗi niêm và ước mong về cuộc sống gia đình hạnh phúc.

+ Trong mối quan hệ với mẹ chồng, nàng hết lòng chăm sóc mẹ chồng lúc ốm đau: “Nàng hết sức thuốc thang lề bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên ngăn ”, thương yêu, lo lắng chu toàn: khi mẹ chồng mất “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.”. Đặc biệt, tấm lòng nàng dành cho mẹ chồng khiến bà cảm động: khi mất, những lời cuối cùng của cuộc đời bà dành để chúc phúc cho con dâu.
+ Với con, Vũ Nương hết sức nuôi dạy, bảo ban, thương yêu.
+ Bị chồng hiểu lầm, bị hàm oan tức tưởi, Vũ Nương đã chọn cái chết để chứng minh phẩm tiết Hành động này cho thấy lòng tự trọng, ý thức giữ gìn danh dự, tiết hạnh ở người phụ nữ này.

5.    Bi kịch của Vũ Nương
-    Có một cuộc hôn nhân không được lựa chọn: Trương Sinh là một kẻ vô học nhưng giàu có “xin mẹ ba trăm lạng bạc” lấy nàng về làm vợ. Người phụ nữ vẹn toàn này không có quyền lựa chọn cho mình một người chồng tương xứng. Cuộc hôn nhân của nàng như một cuộc trao đổi thông thường.
-  Bị nghi oan và phải ùm đến cái chết.
        -  Thiện ý của Vũ Nương (chỉ cái bóng mình bảo đó là cha của con mình để con đỡ tủi) đã bị hiểu lầm. Nghe con nói kể về người cha đêm đêm vẫn đến, Trương Sinh với tính đa nghi sẵn có đã hiểu oan cho tấm lòng thủy chung của Vũ Nương.
- Nỗi oan của nàng không gì giãi bày được (vì Trương Sinh không nói rõ nguyên cớ việc nổi giận của mình). Cuộc đời nàng bế tắc: nếu sống thì phải mang cái tiếng phản chồng đầy ô nhục. Vũ Nương đành chấp nhận cái chết trầm mình xuống sông Hoàng Giang.

6. Nguyên nhân, ý nghĩa cái chết của Vũ Nương và việc nàng không trở lại nhân gian nữa
-    Nguyên nhân:
+ Chiến tranh phong kiến kéo dài quá lâu đã đẩy vợ chồng nàng li tán.
+ Vũ Nương đã chỉ cái bóng của mình trên tường và bảo với con đó là cha bé.
+ Bé Đản quá ngây thơ.
+ Trương Sinh đa nghi và hồ đồ.

-    Ý nghĩa:
+ Khẳng định nhân cách tốt đẹp, lòng tự trọng của Vũ Nương, dù vẫn còn lưu luyến và khao khát hạnh phúc trần gian nhưng nàng thà chết chứ không chịu để ô danh.
+ Phản ánh bi kịch của người phụ nữ trong xà hội phong kiến xưa: không có được hạnh phúc tương xứng với đức hạnh của mình.
+  Là lời nhắc nhở nghiêm khắc thói đa nghi ghen tuông hồ đồ của Trương Sinh.
+ Tố cáo xã hội phong kiến: đó là nơi không cỏ chỗ dung thân cho những tâm hồn đẹp đẽ, cao thượng như Vũ Nương.

Phân tích nhân vật
1.    Nhân vật Trương Sinh
Tác giả đã xây dựng nhân vật Trương Sinh với tính cách rõ nét: “đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức.", nghe lời con trẻ mà không suy xét đúng sai: “Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được.”, hồ đồ, độc đoán không đếm xỉa đến những lời thanh minh của vợ, đối xử tệ bạc, vũ phu với Vũ Nương: “chỉ lấy chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi".

Chính Trương Sinh đã đẩy Vũ Nương đến tình cảnh bi kịch, không lối thoát và phải chọn cái chết để giải thoát. Qua đây cùng thấy được thân phận nhỏ nhoi, bèo bọt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, họ không được làm chủ cuộc sống của mình, luôn luôn là kẻ bị động, hứng chịu những oan khiên, cay đắng.

2.    Những giá trị nghệ thuật
-    Trên cơ sở cốt truyện có sẵn trong kho tàng truyện cổ tích (Vợ chàng Trưng), tác giả đã sáng tạo lại, sắp xếp, đưa thêm những yếu tố mới để câu chuyện trở nên hấp đẫn, đầy tính bất ngờ, mang ý nghĩa mới sâu sắc. Tác giả đã dẫn dắt câu chuyện có mở đầu, diễn biến, cao trào, thắt nút, cởi nút, kết thúc, kết hợp với nghệ thuật xây dựng lời thoại nhân vật sinh động, giàu kịch tính và lời đẫn chuyện giàu tính biểu cảm. Trong đó, các đoạn đối thoại, độc thoại của nhân vật có một vai trò hết sức quan trọng, chứng tỏ nghệ thuật dựng truyện đặc sắc của tác giả.

-    Truyện kì được hiểu là những điều kì lạ vẫn được lưu truyền. Yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì có một vai trò rất quan trọng. Nó khiến câu chuyện được kể trở nên lung linh,hư ảo. Chẳng hạn: chuyện mộng của Phan Lang, chuyện Phan Lang và Vũ Nương dưới động rùa của Linh Phi,... chuyện lập đàn giải oan, Vũ Nương hiện vẻ ngồi trộn kiệu hoa, cờ tán, võng lọng rực rờ đầy sóng, lúc ẩn lúc hiện, rồi “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.”. Đó là đặc điểm chung của thể loại truyền kì trung đại. Hơn nữa, Nguyễn Dữ đã sử dụng cách đưa yếu tố truyền kì vào câu chuyện kết hợp và các yếu tố tả thực để tạo hiệu quả nghệ thuật về tính chân thực của truyện (các yếu tố tả thực: địa danh, thời điểm lịch sử, sự kiện lịch sử, miêu tả chân dung nhân vật, khung cảnh...). Ngoài ra, sự có mặt của các yếu tố kì ảo đã tạo ra một thế giới ước mơ, khát vọng của nhân dân về sự công bằng, bác ái.
 

 

Mong rằng bài viết trên của Cunghocvui.com sẽ giúp các bạn có thêm nhiều kiến thức bổ ích!