Soạn bài Viếng Lăng Bác
1. Đọc nhiều lần bài thơ, tìm hiểu cảm xúc bao trùm của tác giả và trình tự biểu hiện trong bài.
Trả lời:
Cảm xúc bao trùm của nhà thơ trong bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng thành kính thiết tha biết ơn, vừa tự hào vứa xót xa, thương cảm.
Mạch vận động của cảm xúc được biểu hiện theo trình tự của cuộc vào lăng viếng Bác. Cảm xúc bắt đầu từ cảnh bên ngoài lăng tập trung: hình ảnh hàng tre bát ngát gợi lên hình ánh đất nước. Nối theo đó là xúc cảm trước hình ánh dòng người đi trong thương nhớ ngày ngày vào lăng viếng Bác. Nhà thơ sử dụng những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng như mặt trời, vầng trăng, trời xanh để thể hiện xúc cảm và nghĩ suy về Bác. Còn lại là niềm thiết tha mong ước tấm lòng mình vẫn được mãi mãi ở bên lăng Bác khi phải sắp sửa phải trở về quê hương miền Nam.
Chính mạch cảm xúc vừa nói đã tạo nên bố cục cúa bài thơ Viếng Lăng Bác vừa giản dị, tự nhiên, vừa hợp lí.
2. Phân tích hình ảnh hàng tre bên lăng Bác được miêu tả ở khổ thơ đầu. Tác giả đã làm nổi bật những nét nào của cây tre và điều đó mang ý nghĩa ẩn dụ như thế nào? Câu thơ cuối bài trở lại hình ảnh cây tre đã bổ sung thêm phương diện ý nghĩa gì nữa của hình ảnh cây tre Việt Nam?
Trả lời:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát."
Hình ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được và có ấn tượng sâu sắc là hàng tre quanh lăng Bác. Từ bao giờ cây tre đã trở thành biểu tượng của đất nước, của dân tộc Việt Nam với biết bao đức tính Việt Nam đặc biệt cao quý:
"Thân gầy guộc lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi!”
Từ thời bình minh lịch sử nước ta đã có huyền thoại Thánh Gióng đã nhổ tre đàng ngà đuổi sạch giặc Ân. Gần đây thôi, nhân dân miền Nam ta từ gậy tầm vông đã làm nên chiến thắng vang dội địa cầu.
Bởi vậy, cây tre là hình ảnh tiêu biểu, sinh động cho tinh thần bất khuất, chí khí anh hùng của dân tộc ta:
“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Ở đây, nhà thơ miêu tả hàng tre quanh lăng Bác nhưng nhằm nói đến sức mạnh quần chúng, của sự đoàn kết, tư thế hiên ngang của cả dân tộc
Câu thơ cuối bài là: “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này". Khép lai bài thơ là hình ảnh “cây tre”, hình ảnh đã xuất hiện từ đầu thật là tư nhiên. Đúng như nhận xét của Đức Thảo từ “hàng tre” là khách thế ở bên trên đã tan hòa vào “cây tre” là chủ thể ở cuối bài. Hình ảnh "cây tre trung hiếu chốn này” đã làm nổi rõ hơn hình ảnh hàng tre ẩn dụ bên trên.
3. Tình cảm của nhà thơ và của mọi người đối với Bác đã được thể hiện như thế nào trong các khổ thơ 2,3,4 ? Chú ý phân tích những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc trong các khổ thơ này.
Trả lời:
Trong bài thơ, nhà thơ dùng nhiều hình ảnh ẩn dụ tượng trưng giàu sức biểu cảm và gợi ra những ý nghĩa sâu xa, liên tường rộng rãi. Chẳng hạn:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Câu trên là hình ảnh thật: mặt trời trên lăng là mặt trời của trời đất, tự nhiên. Câu thứ hai là hình ảnh ẩn dụ: mặt trời trong lăng chính là trái tim của Bác, một người đã dành trọn đời mình cho nước cho dân. Cách ẩn dụ ở đây thật sinh động, tự nhiên và nhuần nhuyễn, không những nói lên sự vĩ đại của Bác (như mặt trời) mà còn thể hiện được sự tôn kính của nhân dân, của nhà thơ đối với Bác.
Cũng vậy, hai câu thơ:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Bác trở nên bất tử. Bác vẫn còn mãi với non sông, đất nước như trời xanh vẫn còn mãi trên cao: Bác sống như trời đất của ta (Tô Hữu). Bác Hồ kính yêu của chúng ta đă hòa nhập vào trời xanh. Hình ảnh ấy cho thấy cái mãi mãi, cái vô cùng cao cả ở một con người. Vẫn biết hình ảnh Bác là vĩnh hằng nhưng nhà thơ cũng không thể không đau xót vì sự đi xa của Người.
Từ câu thơ gợi ra bao liên tưởng miên man trong một niềm xúc động thiêng liêng thương tiếc Bác vô hạn.
4. Nhận xét về sự thống nhất giữa nội dung tình cảm, cảm xúc và các yếu tố nghệ thuật (thể thơ, nhịp điệu, ngôn ngữ, hình ảnh) của bài thơ.
Trả lời:
Về đặc điểm nghệ thuật, bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương có những nét nổi bật về giọng điệu, hình ảnh và thể thơ.
Bài thơ có một giọng điệu thành kính trang nghiêm. Giọng điệu ấy hợp thành bởi nhiều yếu tố từ thể thơ, nhịp điệu đến từ ngữ và hình ảnh của bài thơ.
Về thể thơ và nhịp điệu, nhà thơ sử dụng thể tự do có dòng bảy chữ, nhưng cũng có những dòng tám, chín chữ với nhịp chậm nhiều dòng ít ngắt nhịp lại gieo vần liền. Bởi thế mà giọng thơ thiết tha, trầm lắng, trang nghiêm thành kính.
Về từ ngữ và hình ảnh, nhà thơ sử dụng từ ngữ xưng hô tôn kính (Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác), với các hình ảnh ẩn dụ vĩnh hằng kì vĩ lớn lao biểu hiện lòng tôn kính chân thành của mình (Mặt trời trong lăng rất đỏ, vầng trăng sáng dịu hiền, kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân, trời xanh...).
LUYỆN TẬP
1. Học thuộc lòng bài thơ
2. Viết một đoạn văn bình khổ 2 hoặc khổ 3 của bài thơ.
Trả lời:
Khổ 2:
Khổ thơ thứ hai là dòng cảm xúc của nhà thơ về vẻ đẹp lớn lao của Bác khi được hòa vào dòng người viếng lăng Bác. Ở đây ta thấy hình ảnh mặt trời được lặp lại hai lần với những ý nghĩa khác nhau. Mặt trời ở câu thơ đầu tiên là hình ảnh mặt trời thực của thiên nhiên, mang lại ánh sáng, sưởi ấm và đem đến sự sống cho muôn loài. Mặt trời ở câu thơ thứ hai là một hình ảnh ẩn dụ, mặt trời ở đây chính là Bác. Bằng việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ này, nhà thơ đã ngợi ca vẻ đẹp của vị cha già dân tộc. Người như ánh mặt trời đem tình thương cho đồng bào, nhân dân Việt Nam. Người là ánh sáng soi đường cho hàng triệu người con của đất nước. Bác chính là cội nguồn sự sống của đất nước. Hình ảnh dòng người ngày ngày “đi trong thương nhớ”, “kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” thể hiện niềm kính trọng, yêu mến của người dân Việt Nam đối với người cha vĩ đại của dân tộc. Đó cũng chính là tình cảm sâu sắc, chân thành mà tác giả dành cho Bác.
Khổ 3:
Nếu khổ thơ thứ hai là tình cảm biết ơn, kính trọng thì đến khổ thơ thứ ba, tác giả bày tỏ nỗi xót thương vô hạn đối với sự ra đi của Bác. “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”, tác giả Viễn Phương đã so sánh Bác với “trời xanh” vĩnh hẵng, bất biến. Dù Bác đã ra đi nhưng vẫn còn sống mãi trong trái tim, trong sự nhớ thương của nhân dân Việt Nam ngàn đời. Tình yêu thương bao la, ơn đức lớn lao của Bác sẽ không bao giờ nguôi ngoai trong lòng những thế hệ người Việt. Người đã rời xa trần thế nhưng hình ảnh người vẫn gần gũi như là bác, là cha của những người cháu, người con, đầy “dịu hiền”. Nhưng dẫu biết là như thế, khi nhìn thấy hình ảnh Bác “nằm trong giấc ngủ bình yên” tác giả vẫn không thể che giấu cảm xúc xót thương vô hạn đối với sự mất mát lớn này. Ở cuối khổ thơ, câu thơ “Mà sao nghe nhói ở trong tim!” kết lại bài thơ bằng việc bộc lộ trực tiếp cảm xúc trữ tình. Dấu chấm than đặt cuối khổ thơ như nốt lặng, bày tỏ tình cảm của nhà thơ đối với Bác.