Đăng ký

Nắm chắc kiến thức cơ bản của Lầu Hoàng Hạc (Hoàng Hạc lâu) của Thôi Hiệu

5,557 từ

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Cuộc đời và sự nghiệp
-              Thôi Hiệu (704-754) là nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng vào thời Thịnh Đường. Ông quê ở Diện Châu, ngày nay là thành phò Khai Phong, tính Hà Nam.
-              Thôi Hiệu đỗ tiến sĩ vào năm Khai Nguyên thứ 1 (tức năm 723), từng giữ chức "Tư huân Viên ngoại lang”.
-              Ông tính tình phóng khoáng, lãng mạn, thường đi chu du nhiều nơi rồi tòng quân nơi biên tái nên thơ ông chuyển dần từ phong cách phù diễm (đẹp nhưng không sâu) thời trẻ sang khảng khái hùng hồn.
-              Thư Thôi Hiệu càng vẻ cuối đời càng trở nên trong sáng, sinh động, gần với tinh thần của dân ca.
-              Tác phẩm của ông còn lại rất ít, trong Toàn đường thi tập có một tập thơ gồm 48 bài của Thôi Hiệu, trong dó nổi tiếng nhất phải kể đến Hoàng Hạc Lâu.
2. Lầu Hoàng Hạc
-              Lau Hoàng Hạc nằm trên mỏm Hoàng Hạc Cơ, núi Hoàng Hạc (cũng là núi Xà Sơn), thuộc huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc.
-              Lầu Hoàng Hạc có hai sự tích:
+ Thứ nhất, tương truyền có Tử An là người của cõi tiên đã cưỡi hạc vàng đen nơi này.
+ Truyền thuyết thứ hai, phổ biến hơn, là từ một mỏm núi bên sông Trường Giang (về sau gọi là mỏm Hoàng Hạc Cơ), Phí Văn Vi đã cưỡi hạc vàng bay lên cõi tiên. Lầu Hoàng Hạc là do người đời sau dựng lên để kỷ niệm sự tích ấy.
4.            Hoàn cảnh ra đời bài thơ
-              Trong một lần đến thảm lầu Hoàng Hạc, cảnh đẹp nơi đây đã khiến lòng người xúc động, lại cảm khái trước nhân thế hiện tại và hoài niệm thần tiên quá khứ mà nhà thơ Thôi Hiệu đã làm nên bài thơ này.
5.            Phong cảnh nơi Lầu Hoàng Hạc
-              Phong cảnh nơi lầu Hoàng Hạc rất đẹp:
+ Trên núi cao có lầu.
+ Dưới núi có sông Hán Dương uốn lượn.
+ Bên bờ sông là bãi Anh Vũ xanh dày cỏ non.
+ Trên trời cao mây trắng vẫn trôi tự ngàn năm.
6.            Không gian của “Hoàng Hạc lâu"
-              Không gian ấy được tác giả miêu tả rất tài tình, kết hợp được nhiều chiều không gian trong thể đối xứng của tự nhiên:
+ Cao (trên lầu, trên núi) đối với thấp (dưới sóng).
+ Trên (trời) đối với dưới (bãi).
-              Đó là một không gian đẹp nhưng vắng lặng.
7.            Thời gian trong bài thơ
-              Đó là thời gian chuyển hóa từ quá khứ đến hiện tại được chia làm hai phần:
+ Bốn câu đầu: Là sự tiếc nuối quá khứ với hạc vàng đã bay đi mất, với mây trắng nghìn năm.
+ Bốn câu cuối: Là nỗi niềm hiện tại, trước cảnh đẹp của lầu Hoàng Hạc, lòng chạnh buồn nhớ đến quê hương.
8.            Màu sắc của phong cảnh
-              Trong bài thơ xuất hiện những màu sau:
+ Hạc vàng
+ Mây trắng
+ Cỏ xanh
+ Màu hoàng hôn
+ Màu khói sóng
-              Bài thơ như một bức tranh nhiều màu sắc, thiên về những gam màu nhẹ, buồn, dễ gợi tình thi nhân cũng như tình độc giả, khiến cho bài thơ mang màu sắc hư ảo.
9.            Nhãn tự của bài thơ
-              Chữ "sầu” trong bản phiên âm (Yên ba giang thượng sử nhân sầu) và chữ "buồn’’ trong bản dịch nghĩa, dịch thơ.
-              Trước không gian bao la, bát ngát của thiên nhiên, trước thời gian với nhiều nỗi niềm của quá khứ và hiện tại ấy con người cảm thấy vô cùng nhỏ bé, hữu hạn trước cái vô hạn của thời gian, đất trời nên tình cảm tự nhiên là chạnh lòng trước cảnh vật. Toàn bộ bài thơ miêu tả cảnh đẹp, nhưng kết thúc lại là một chữ “sầu” trĩu nặng bởi đứng trước cảnh ấy là một người con tha hương. Vì vậy mới có chuyện cảnh đẹp mà lòng buồn.

B. TỰ LUẬN
Bài thơ Lầu Hoàng Hạc gọi cho anh (chị) những suy nghĩ gì?
Gợi ý làm bài
Thật ra, Hoàng Hạc lâu là bài thơ xót xa vì cái đẹp sẽ bị đánh mất và kiếp sống của con người, còn gì ngoài nỗi cô đơn, hoài nhớ...?
Phiên âm:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ, Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu. Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, Bạch vân thiên tải không du du. Tinh xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương thảo thê thê Anh Vũ châu. Nhật mộ hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch nghĩa:
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc.
Hạc vàng mật khi dà bay đi, không bao giờ trở lại, 
Mây trắng ngàn năm còn bay chơi vơi.
Hàng cày đất Hán Dương phản chiếu rõ mồn một trên dòng sông tạnh,
Trên bãi Anh Vũ cỏ thơm mơn mởn xanh tươi. Chiều tối tự hỏi đâu là quê hương?
Khói và sóng trên sông khiến cho người nổi mối u sầu.
Dịch thơ:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu, 
Mã dây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ. 
Hạc vàng đi mất từ xưa, 
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay. 
Hán Dương sông tạnh cây bày, 
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non. 
Quê hương khuất bóng hoàng hôn, 
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?
(Tản Đà dịch)
Giống mọi bài thơ Đường trác tuyệt khác, Thôi Hiệu cũng miêu tả thiên nhiên để ký thác nỗi lòng. Nhưng không giống những bài thơ nổi tiếng cùng thời, Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu chỉ là bức kí họa phong cảnh bằng màu sắc mà chẳng hề xuất hiện chút âm thanh.
Bin câu thơ đầu là cảnh vật, tâm trạng của quá khứ. Bốn câu sau là cảnh vật, tán trạng của thực tại. Cả hai phần liên kết với nhau bởi dự cảm thiên tài vẽ cái đẹp phôi pha, cái đẹp không có trong thực tại và nỗi cô đơn muôn thuở mà con người không tránh khỏi trên vũ trụ bao la này.
Nay câu đầu tiên, Thôi Hiệu đã khẳng định cái đẹp đã không còn trong quá khứ:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
(Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi).
Tích nhàn (người xưa) nhằm chỉ người tu tiên đạt đạo. Hoàng hạc nhàm chi giống "linh cầm” - chim thiêng vốn được thờ trong các đền miếu. Nơi chim hạc sống và nơi tiên ở, đấy là mảnh đất hứa, chốn thiên đường của nhàn gian. Chốn ấy tượng trưng cho vẻ đẹp hạnh phúc mà con người khao khát vươn đến, tôn thờ. Vậy mà cả người tiên và chim thiêng không còn nữa. Cả hai đều đã ra đi từ lâu rồi, trong quá khứ. Câu thơ là toàn bộ cảm thức xót xa ù cái đẹp không ở lại. Do đó ở câu thơ thứ hai, nhà thơ nhấn mạnh ý còn trơ lại (không dư):
Thứ địa không dư Hoàng Hạc lâu
(Nơi đây chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc)
Với hai câu thơ này, tác giả kể lại tích xưa (có một) và chỉ ra một sự thật phũ phàng (câu hai): cái còn lại chi là kí ức về vẻ đẹp thần tiên ấy.
Hẳn là hoàn toàn khác với suy nghĩ của con người hằng bao thế kỷ nay. Người đời luôn xem lầu Hoàng Hạc là chứng tích của câu chuyện thần tiên, là hiện thân của cái đẹp. Thôi Hiệu quan niệm khác: cõi thần tiên đã không còn, đấy chỉ là kí ức về cõi thần tiên mà thôi. Do vậy, sự thần tượng của con người chi là thần tượng về kí ức, về cái bóng của cái đẹp chứ không phải là bản thân cái đẹp. Điều này được thi nhân nói rõ qua câu thơ tiếp theo:
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
(Hạc vàng một khi đã bay đi, không bao giờ trở lại)
Đây là câu mang tính khẳng định quyết liệt. Câu thơ có bảy chữ thì sáu chữ thuộc thanh trắc nhằm bày tỏ một chân lí vĩnh hằng, bất di bất dịch: một đi không trở lại. Như thế, theo Thôi Hiệu cái đẹp sẽ không bao giờ trường cửu. Có cái đẹp nhưng rồi sẽ phải phai tàn theo thời gian. Đấy là bản chất của cái đẹp, của mọi sự vật hiện tượng trên cuộc đời. Nhưng vì nhân sinh quá khao khát cái đẹp, con người không chi tưởng tượng ra cái đẹp (vì chuyện phi lí vì cưỡi hạc bay về trời cũng chỉ là chuyện hoang đường) mà còn tôn thờ đế lưu giữ nó. Vì lẽ đó, lầu Hoàng Hạc vẫn là chốn tiên cảnh đối với bao người cho dù người tiên và hạc tiên đã đi mất từ ngàn xưa. Đấy là sự thật và cũng là lẽ thường của tạo hóa. Câu thơ thứ tư nhằm minh chứng cho lẽ này:
Bạch vân thiên tải không du du
(Mây trắng ngàn năm còn bay chơi vơi)
Dĩ nhiên, câu thơ này vẫn mang chức năng tả cảnh. Đấy là màu sắc thứ hai của bức tranh Hoàng Hạc lâu: một sắc trắng mênh mông ngàn năm vẫn trôi hoài trên mảnh đất thần tiên ấy. Âm sắc câu thơ đượm sự tiếc nuối. Hạc vàng đã ra đi không trở lại. Dưới trời mây là cả bầu trống vắng khôn cùng. 
Sắc máu đầu tiên của bài thơ lá màu vàng. Màu tượng trưng cho thời hoàng kim, đô hội. Màu này được điệp lại ba lần, trong ba từ hoàng hạc. Lặp từ là điều tối kị trong thơ, đặc biệt là thơ Đường vì dung lượng ít ỏi của nó. Thế ma 1 hói Hiệu không ngần ngại dặt một lúc ba từ hoàng hạc vào ba câu thơ nối tiếp nhau. Trong đó, từ ở giữa là một cái tên (lầu Hoàng Hạc). Hai từ còn lại chí một sinh vật sống động, được tôn thờ (hạc vàng).
Theo quan niệm dân gian, chim hạc là loài mang ấm no hạnh phúc đến cho mọi người. Nơi nào chim hạc xuất hiện, nơi ấy thanh bình, trù phú. Thê má ở đây, thi nhân hai lần dế hạc vàng xuất hiện trong tư thế đã ra đi (khứ) và không bao giờ về nửa (bất phục phản). Phải chăng dấu hiệu đổ nát, suy tàn của một triều đại hoàng kim bậc nhất Trung Hoa đã được thi nhân linh cảm và phổ vào hình tượng thơ?
Dẫu thế, thời hoàng kim có thế qua đi thì thời hoàng kim khác lại đến như đám mây trên trời kia, vẫn trắng và vẫn ngao du hoài cùng trời đất. Một ra đi vĩnh viễn (hạc vàng), một trường tồn vĩnh viễn (mây trắng), hai hình tượng được' đặt trong thế đối lập như càng hướng đến chân lí: sự vĩnh hằng của trời đất, sự mong manh của cái đẹp, sự cố chấp đến thảm hại của người đời (bởi tôn thờ cái đẹp mà ngay trong quá khứ cũng đã không còn).
Màu sắc của bài thơ được gia tăng thêm màu xanh:
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ Phương Thảo thê thê Anh Vũ châu.
(Hàng cây đất Hán Dương phản chiêu rô mồn một trên dòng sông tạnh,
Trên bãi Anh Vũ cỏ thơm mơn mởn xanh tươi).
Đáy là những sắc màu của thực tại. Thật ra, màu sắc thực tại đã được thể hiện ngay trong màu mây trắng rồi. sắc trắng của mây là sắc trắng vĩnh cửu. Tự xa xưa, trước cả việc tiên cưỡi hạc ở chốn ấy, mây đã mang màu trắng và cho đến mãi sau này sắc màu ấy cũng không thay đổi. Bài thơ hiện rõ ba gam màu: vàng, trắng và xanh. Cùng với tiên, hạc, bầu trời, mây, cây, cỏ, toàn bộ killing cảnh của lầu Hoàng Hạc xưa và nay hiện lên.
Đây không phải là tòa lầu đơn độc như nhan đề chỉ ra mà có cả tích truyện hình thành nén tòa lầu, có cả quá khứ lẫn thực tại, cả không gian gần lẫn rộng mờ của nó. Tất cả để nói lên rằng lầu Hoàng Hạc đẹp là nhờ thuộc về nét văn hóa dẹp và bối cảnh đẹp của nó. Thử hình dung nếu tòa lầu gợi sắc vàng (hoàng) ấy tồn tại trong khung cảnh trên trời là mây trắng, mặt đất cây cỏ úa vàng thì liệu nó có đẹp như sự hình dung bấy lâu nay của người đọc qua bài thơ. Lại nữa, nếu không có cái tích Phí Văn Vi cưỡi hạc về trời thì liệu vẻ bay bổng, lãng mạn của tòa lầu ấy có còn hay không? Du khách ngày xưa và cả bây giờ đến đây đâu cho ngắm cảnh đẹp mà còn khao khát được bay lên một lần vào cõi mông lung huyền thoại!
Nguyên văn chữ Hán, bài thơ có ba từ láy hoàn toàn: “du du", ‘lịch Itch", "thè thê”. Những từ láy này vẫn rất hiếm khi xuất hiện nhiều như thế trong thơ Đường. Giá trị của chúng là tạo nên âm hưởng trang trọng, mênh mông và vĩnh hằng. Nếu ba câu đầu đều có sự lặp lại của từ hoàng hạc thì ba câu tiếp theo đều có từ láy xuất hiện. Đây là nét độc đáo của bài thơ. Đọc lên, ta cứ ngỡ nhà thơ không hề có dụng công nhiều về câu chữ. Điều này đúng. Bởi lẽ, sẽ khó tìm thấy hiện tượng lặp từ đều đận này ờ thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Nét độc đáo của bài thơ là ở đó. Tứ thơ xuất hiện, Thôi Hiệu ngay lập tức ghi lại nên hơi thơ hồn nhiên, khỏe khoắn như cảnh vật, đất trời sinh ra nó. Một lần nữa, Thôi Hiệu đã khiến cho cả tòa lầu dựng để tưởng nhớ tích xưa bay lên cõi tiên như chính sự tích ấy.
Vậy mà tất cả những điều trên chi làm nền để xuất hiện tâm trạng cô đơn, hoài nhớ da diết. Nói cách khác, nếu không có tâm trạng con người neo đậu ở cuối bài thơ thì cả bài thơ lẫn cảnh vật thần tiên đều hóa thành vô nghĩa.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)
Ta cùng nhớ lại bài thơ của thi tiên Lí Bạch làm tại lầu Hoàng Hạc khi tiõn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng. Do thời điểm làm thơ khác nhau, Lí Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên vào buổi sớm còn tâm sự của Thôi Hiệu là vào buổi chiều nên sông Trường Giang hiện lên với hai vẻ đẹp khác nhau. Lí Bạch thấy sông Trường Giang chảy vào cõi trời (thiên tế lưu) còn Thôi Hiệu thì không dõi theo dòng chảy mà ngưng tụ hồn sống trong khói sóng (yên ba).
Điểm khác nữa của hai tứ thơ là Lí Bạch không nói rõ tâm sự, Thôi Hiệu thì bộc bạch trực tiếp: quê hương ở nơi nào? (hà xứ thị). “Buổi chiều” và “khói sóng” là tác nhân gây nên nỗi buồn. Một nỗi buồn man mác đến não cá đất trời mà bất kì ai trong bất kì cảnh ngộ tha hương nào cũng đều tìm đến tứ thơ như nỗi giãi bày tâm sự.
Bốn câu cuối của bài thơ có sự đột biến. Trong lúc hai câu 5, 6 đang miêu tả cảnh vật thanh bình, đầy sức sống với màu xanh của cây cỏ với dòng sông sau cơn mưa... bỗng nhiên nhịp thơ chùng xuống, chuyển sang gam màu vàng nhạt của hoàng hôn và trắng mờ của khói sóng. Sự chuyển đổi tâm trạng này chuyển tải một tâm sự thầm kín: tiếc nuối cho cái đẹp đã qua đi, chỉ còn lại là kí ức vời xa về chúng, tựa chốn quê sau làn khói sóng, sau ánh chiều tà biết tìm ở nơi nao?

Xem thêm >>> Phân tích bài thơ "Hoàng Hạc lâu" của Tống Hạo Nhiên

Mong rằng bạn có thể nắm vững kiến thức về bài thơ này, chúc các bạn học tập tốt <3

shoppe