Soạn bài Nghị luận trong văn tự sự - Soạn văn lớp 9
NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ
I. NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ
1) Đọc các đoạn trích từ Lão Hạc đến Truyện Kiều.
2 ) Đoạn trích thể hiện những suy nghĩ nội tâm của nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao. Ông giáo dã Độc thoại nội tâm, tự thuyết phục mình rằng vợ mình không ác để chỉ buồn mà không nỡ giận. Để có được kết luận ấy ông đã Đưa ra các luận diểm và Lập luận:
a) Nêu vấn đề: Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh thì ta luôn có cớ dể tàn nhẫn và độc ác với họ.
b) Phát triển vấn đề: Vợ không phải ác nhưng sở dĩ cô ấy trở nên ích kỉ tàn nhẫn là vì cô ấy đâ quá khổ. Vì sao vậy?
- Khi người ta đau khổ thì chỉ nghĩ đến cái chân đau (từ một quy luật tự nhiên).
- Khi người ta khổ quá thì người ta không còn nghĩ đến ai được nữa (giếng quy luật tự nhiên trên).
- Vì cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất.
c) Kết thúc vấn đề: Chỉ buồn chứ không nỡ giận.
Về hình thức đoạn trích có nhiều từ, nhiều câu mang tính chất lập luận. Đó là các hô ứng phán đoán dưới dạng nếu...thì, vì thế...cho nên, sở dĩ... là vì, khi A...thì B... Câu văn ở đây đều là những câu khẳng định, ngắn gọn, khúc triết, rõ ràng.
Những điều vừa nói tất cả điều phù hợp với tính cách ông giáo nhân vật của Nam Cao trong truyện Lão Hạc. Đó là một người có ăn học, hiểu biết, giàu lòng thương người, luôn trăn trở nghĩ suy dằn vặt về cách sông, cách nhìn đời nhìn người.
Đoạn đối thoại giữa Kiều và Hoạn Thư tiếp đó cũng diễn ra dưới dạng lập luận. Lập luận của Kiều ở mấy câu đầu. Kiều với vai trò luật sư buộc tội. Hoạn Thư là bị cáo. Sau câu hỏi chào mỉa mai là lời Kiều đay nghiến: Xưa nay đàn bà có được mấy phần ghê gớm cay nghiệt như mụ và xưa nay càng cay nghiệt thì càng chuốc lấy oan trái (lưu ý kiểu câu khẳng định càng ... càng). Hoạn Thư tuy “phách lạc hồn xiêu nhưng vẫn tự biện minh bằng một đoạn lập luận đặc sắc với 4 luận điểm trong 8 dòng thơ.
Một: Tôi là đàn bà nên ghen tuông là lẽ thường (nêu một chuyện đương nhiên, thường tình).
Hai: Ngoài ra, tôi cũng đã đối xử tôt với cô khi ở gác viết kinh; khi cô trốn khỏi nhà, tôi cũng chẳng đuổi theo (kể công).
Ba: Tôi với cô đều trong cảnh chồng chung - chắc gì ai chịu nhường ai.
Bốn: Dẫu sao tôi vẫn cũng đã trót gây khổ cho cô nên bây giờ chỉ còn biểt trông cậy vào lượng khoan dung rộng lớn của cô (chịu nhận tội và đề cao tâng bốc Kiều).
Với lập luận đó, Kiều đã phải công nhận tài của Hoạn Thư “khôn ngoan rất mực, nói năng phải lời” và ít nhiều đã bối rối :
Tha ra thì củng may đời
Làm ra, thì cũng ra người nhỏ nhen.
Về những dấu hiệu và đặc điểm của lập luận trong một văn bản, đọc kĩ gợi ý cùa sách giáo khoa.
- Lập luận thực chất là các cuộc đối thoại (đối thoại với người hoặc với chỉnh mình) trong đó người viết thường nêu lên cóc nhện xét, phán đoán, các li lẽ nhằm thuyết phục người nghe, người đọc vẻ một vấn đề gì đó.
- Trong đoạn văn lập luận, người viết ít dùng câu miêu tả, trần thuật mà dùng nhiều loại câu khẳng đình và phủ định, các câu có mệnh đề hô ứng khác nhau như: nếu...thì, không những (không chỉ)...mà còn, càng...càng, vì thế...cho nên, một mặt...mặt khác, vừa...vừa...
Trong đoạn văn lập luận, người viết thường dùng nhiều từ lập luận như: tại sao, thật vậy, tuy thể, trước hết, sau cùng, nói chung, tóm lại, tuy nhiên...