Đăng ký

Hướng dẫn học về tác phẩm Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du

2,077 từ

Cảnh ngày xuân là một đoạn trích hay trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Hãy Cunghocvui.com tìm hiểu đoạn trích qua bài viết dưới đây

Cảnh ngày xuân

I.    Đọc Truyện Kiều, các nhà nghiên cứu văn học có cùng nhận định: Nguyễn Du là nhà Nho uyên bác và có tài về thơ văn. Một trong những cái tài tạo nên giá trị của Truyện Kiều là tài miêu tả cảnh thiên nhiên. Bằng bút pháp tả cảnh và gợi tình nhà thơ đã tạo đước cảm xúc sâu đậm trong tâm trí người đọc mà Cảnh ngày xuân là cảnh mơ đầu trong thiên tình sử Kim Vân Kiều.

Nghệ thuật miêu tả trong đoạn trích Cảnh ngày xuân

II.    Sau khi miêu tả hình dáng, tính cách của Thùy Vân và Thúy Kiều, nhà thơ đã ghi lại hình ảnh của ngày xuân trong lẽ tuần hoàn của vũ trụ:

Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Một bức tranh phác thảo với những nét châm phá là biểu tượng của mùa xuân hiện lên trong bốn câu thơ có thanh bằng chiếm đa số tạo nên khung cảnh xinh tươi, không khí nhẹ nhàng. Biểu tượng của mùa xuân là chim én, có non. cánh lê. Tất cả đều nằm trong không gian mùa xuân ở vào một thời điếm rõ ràng” Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”, chín mươi ngày đầy anh sáng đẹp của mùa xuân nay đã qua sáu mươi ngày. Con én thì vẫn đưa thoi, bay qua lượn lại như con thoi trong khung cửi đang dệt vải, chỉ có cành lê trắng là chịu ảnh hưởng bởi thời gian trôi qua, chỉ còn "điểm một vài bông hoa” ở trên cành. Đây là hai hình ảnh động giữa một nền có non chờ bước chân người đến tận chân trời. Đôi nét phác thảo, miêu tâ biểu tượng mùa xuân nhà thơ gợi trí tưởng tượng thêm của người đọc để họ nhận ra thiên nhiên mùa xuân xinh tươi đã qua sáu mươi ngày, báo hiệu cho:

Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

Tháng ba có tiết thanh minh từ thời Tần - Hán ó Trung Hoa. Đây là lễ tiết vui xuân, tế tự bên sông và chiêu hồn nối phách. Qua đời Đường - Tống, tiết thanh minh chí còn hai nội dung chính là lễ tảo mộ và hội đạp thanh. Lễ tao mộ: từ quan viên đến thứ dân đều phải đến nghĩa trang để cúng viếng đốt vàng mã và sửa sang phần mộ của người thân. Hội đạp thanh: nam thanh nữ tú ăn mặc đẹp, gót nối gót, vai kề vai nhởn nhơ dạo chơi ngắm cảnh. Cả hai hòa nhập làm một trong sáu câu thơ thật sinh động mà cũng thật ngắn gọn biểu hiện tài năng của Nguyễn Du trong nghệ thuật dùng từ ẩn dụ (yên anh), hoán dụ (ngựa xe, áo quần), và nghệ thuật so sánh trong văn miêu tả.

Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sứa bộ hành chơi xaân,
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.

Chị em Kiều (Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan) cũng “nớ nức” trong rừng người nô nức chen nhau đi lễ hội ấy. Vừa đi vừa trò chuyện trên cỏ xanh, cúng viếng và sửa sang phần mộ của người đã khuất, cùng thiên hạ hòa mình vào thiên nhiên. Khoa học chưa chứng minh được, chưa giải thích được con người còn hay mất sau khi chết về phần tâm hồn, cũng chưa giải thích và chứng minh được giả định con người vẫn còn sau khi chết thì họ về đâu và sống bằng những gì? Sự bí ẩn gần như vĩnh cửu ấy đã làm nảy sinh văn hóa tâm linh của người phương Đông từ thời xa xưa. Theo thời gian, phong tục ấy có biến đổi, việc cúng đốt “vàng vó” cũng đã hạn chế, nhưng những câu thơ của Nguyễn Du vẫn đầy giá trị nhân bản: Người còn sống vẩn còn nhơ, trân trọng người đã khuất, hiện tại vẫn hướng về quá khứ. Sau khi "lễ là tảo mộ”, chị em Kiều dự “hội là đạp thanh”. Thời gian qua mau. Giờ thì:

Tà tà hóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn đan tay ra về.

Khởi đầu là “nô nức” cười như bình minh tươi sáng; kết thúc, ngày hội tàn thì vương vấn chút buồn như không khí chiều tà. Chút buồn chiều ấy nằm trong nhịp thơ chậm rãi, nằm trong từng bước chân "thơ thẩn ” của chị em Kiều.

Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lẩn xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Cái độc đáo trong bốn câu thơ miêu tả cảnh chiều đẹp kia là những từ láy gợi hình gợi ý. Trên dòng suối nhỏ "uốn quanh” có nhịp cầu “nho nhỏ” bắc ngang ở cuối ghềnh. Cảnh đẹp có bề “thanh thanh”. Trong từ láy ấy vừa có âm thanh nhẹ, vừa có màu xanh của cỏ cây, mây trời trong lành. Còn dòng nước của con suối kia cũng “nao nao”. Quanh co uốn khúc hay bối rối trong lành? Dòng suối nao nao hay lòng Kiều bối rối tiếc nuối cảnh đẹp trên đường về?

III.    Cảnh ngày xuân đã được nhà thơ miêu tả theo chiều thời gian. Bốn câu đầu là cảnh xuân chung của đất trời. Những câu còn lại là cảnh xuân của con người trong tiết thanh minh. Mỗi cảnh đều mang một không gian, một thời gian và tiết tấu khác nhau, chỉ có con người (chị em Kiều) là không khác về vóc dáng trang phục nhưng khác về tâm trạng: nô nức lúc đi và thơ thẩn lúc "về. Chính nghệ thuật vừa miêu tả vừa khơi gợi ấy đã tạo được cảm xúc theo tâm trạng của nhân vật, muốn hòa vào nhân vật để tận hưởng không khí ngày xuân đầy ý nghĩa của người xưa.

 

 

Mong rằng bài viết trên của Cunghocvui.com sẽ giúp các bạn có thêm nhiều kiến thức bổ ích!