Văn nghị luận trao duyên - Soạn văn 10
Văn nghị luận trao duyên - Soạn văn 10
Bài viết dưới đây Cunghocvui sẽ giúp các bạn làm sáng tỏ nội dung lý thuyết về nghị luận bài Trao duyên!
Đề bài: Nghị luận văn học Trao duyên
Nguyễn Du là một nhà văn học nổi tiếng không thể không kể đến trong kho tàng dân tộc Việt Nam. Đánh giá của ông là rất lớn, chắc hẳn mọi người đều biết đến tác phẩm nổi tiếng Truyện Kiều với nhiều phân cảnh nổi tiếng nói về các tình tiết diễn ra và tâm trạng nhân vật. Trong đó có đoạn trích Trao duyên đem lại cho người đọc rất nhiều cảm xúc về số phận lắt léo của Thúy Kiều và mối tình tan vỡ với Kim Trọng.
Sau khi giải quyết xong thủ tục bán mình (“Tờ hoa đã ký-cân vàng mới trao”), lấy tiền lo cho vụ kiện nhà Kiều, ngày mai Kiều sẽ phải rời theo Mã Giám Sinh ra đi.Đêm ấy Kiều bồi hồi thương cho chàng Kim, tìm cách trả nghĩa nợ tình cho chàng.Đèn thắp sáng đêm, nước mắt đầm đìa.Nhân Thúy Vân thức dậy hỏi, Kiều bây giờ mới cậy em thay lời và trao duyên cho em.Mối tình Kim-Kiều đâu phải là mối tình trăng gió thoảng qua.Đây là mối tình đầu say đắm nhất, trong sáng nhất.Thế mà giờ đây phải đem mối tình ấy trao cho người khác – còn có nỗi đau nào hơn?
Bởi vì chữ cậy bao hàm ý hy vọng tha thiết của một lời trông cậy, có ý nương tựa, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt, gửi gắm nỗi khẩn khoản thiết tha.Kiều nói “em có chịu lời” chứ không nói “em có nhận lời” ngoài lý do từ “chịu lời” mang sắc thái bắt buộc, Kiều muốn em không được từ chối đề nghị của mình mà còn bởi vì Kiều cảm thấy đây là một sự thiệt thòi, một sự hy sinh lớn lao của em Vân – em sẽ phải yêu và kết duyên vợ chồng với một người mà mình chưa yêu.Cách nói như thế phù hợp với hoàn cảnh và tâm trạng van nài, khẩn thiết của Kiều.Ngày xưa, giáo lý phong kiến thời xưa rất nghiêm ngặt. Xưa nay về dưới lạy bề trên, em phải thưa gửi lễ phép khi nói với chị.Nhưng lúc này, Kiều lại đang bảo em “ngồi lên” rồi “lạy”, ”thưa”.Tại sao Kiều lại chấp nhận hạ mình xuống hàng thấp của người thấp vế? Bởi vì việc và Kiều sắp “cậy” em là một việc rất hệ trọng.Tư thế “lạy”, ”thưa” là tư thế của một người chịu ơn với ân nhân của mình. Thật vậy, em Vân sẽ phải thay Kiều hy sinh tình duyên của mình mà giúp Kiều nối duyên với chàng Kim, việc làm đó Kiều mang ơn em rất lớn.Ngoài ra, hành động “lạy”, ”thưa” của Kiều còn tạo ra một bầu không khí nghiêm trang, trịnh trọng, Kiều “vừa tình vừa lễ”, làm cho em không thể không nhận lời.Với cách dùng từ khéo léo và đầy sắc thái ý nghĩa, chỉ qua hai câu thơ, nghị luận trao duyên 12 câu đầu Nguyễn Du đã mở đầu cuộc trao duyên đầu hồi hộp, trang trọng và đồng thời thể hiện hoàn cảnh éo le, tâm trạng khẩn thiết, bế tắc của Kiều. Nguyễn Du không kể lại thái độ của Thuý Vân ra sao bởi vì hai câu đầu chỉ là lời bày tỏ ý nguyện. Đúng là sau đó, Kiều nói ngày đến mối tình dang dở của mình:
Giữ đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Cách nói như thế phù hợp với hoàn cảnh và tâm trạng van nài, khẩn thiết của Kiều.Ngày xưa, giáo lý phong kiến thời xưa rất nghiêm ngặt.Xưa nay về dưới lạy bề trên, em phải thưa gửi lễ phép khi nói với chị. Nhưng lúc này, Kiều lại đang bảo em “ngồi lên” rồi “lạy”, ”thưa”.Tại sao Kiều lại chấp nhận hạ mình xuống hàng thấp của người thấp vế? Bởi vì việc và Kiều sắp “cậy” em là một việc rất hệ trọng.Tư thế “lạy”, ”thưa” là tư thế của một người chịu ơn với ân nhân của mình.Thật vậy, em Vân sẽ phải thay Kiều hy sinh tình duyên của mình mà giúp Kiều nối duyên với chàng Kim, việc làm đó Kiều mang ơn em rất lớn.Ngoài ra, hành động “lạy”, ”thưa” của Kiều còn tạo ra một bầu không khí nghiêm trang, trịnh trọng, Kiều “vừa tình vừa dễ”, làm cho em không thể không nhận lời.Với cách dùng từ khéo léo và đầy sắc thái ý nghĩa, chỉ qua hai câu thơ, Nguyễn Du đã mở đầu cuộc trao duyên đầu hồi hộp, trang trọng và đồng thời thể hiện hoàn cảnh éo le, tâm trạng khẩn thiết, bế tắc của Kiều.Nguyễn Du không kể lại thái độ của Thuý Vân ra sao bởi vì hai câu đầu chỉ là lời bày tỏ ý nguyện.Trớ trêu thay, cơn gia biến ập đến với Kiều.Kiều đang “giữa đường”, đang gánh một “gánh tương tư” nặng trĩu thì gánh đứt, không sao mang xách lại được.Hình ảnh ấy đã thể hiện rõ tâm trạng bất lực của Kiều.Và vì thế mà giờ đây, Kiều phó thác “gánh tương tư” bị gãy - hay nói theo cách của Kiều là tơ duyên mối vướng – lại cho em Vân.Nhưng đối với Thuý Vân, đó là một “mối tơ thừa”.Kiều hiểu thấu cảm giác thiệt thòi của em nên nói thẳng ra:”Mặc em”, có nghĩa là “phó mặc cho em đó, dang dở hay không em cũng phải gánh vác, chắp nối cho chị.Kiều hết sức mong em dùng thử kéo bền nhất – “keo loan”, thứ keo chế bằng huyết chim loan – để “chắp mối tơ thừa” này và sao cho nó không bao giờ đứt nửa.Câu nói này mang giọng điệu của người chị phó thác cho em, nên câu thơ mang sắc thái dứt khoát, nghiêm trang và mang nhiều “sức nặng” của giọng điệu. Không còn gì để mất nữa, đến lúc này Kiều có thể bình tĩnh nói cặn kẽ chuyện tình, nỗi đau của mình:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Đây là những điều bí mật của Kiều mà Thuý Vân chưa hề được biết, là điều lễ giáo phong kiến cấm kỵ, nhưng bây giờ, Kiều buộc phải thành thật kể cho em nghe, với hy vọng một sự thông cảm chia sẻ.Lời nói của Kiều thật bình tĩnh, rõ ràng và nghẹn ngào, cặn kẽ nỗi đau.Sự trùng điệp của ba điệp từ “khi”:”khi gặp”, ”khi ngày”, ”khi đêm” đã nói lên sự thề ước sâu nặng, không thể nuốt lời, càng khẳng định tình trạng bế tắc của Kiều.Kiều quan niệm tình yêu của mình khác với quan niệm tình yêu của xã hội phong kiến đương thời:Đó là sự cảm nhận yêu thương từ trong trái tim chứ không phải sự bức ép, ràng buộc.Phải chăng Nguyễn Du đã cho Kiều phá vỡ quan niệm lạc hậu, bất công đối với tình yêu đôi lứa để hướng tới tình yêu đích thực của con người? Mối tình Kim-Kiều đang mặn nồng thì cơn gia biến ập đến. Lúc này đây Kiều phải chọn một trong hai:”Hiếu” hoặc “tình” chứ không thể “hai bề vẹn hai” được.Thật ra, trong hoàn cảnh “Hiếu-tình chọn một” thì Kiều vẫn có thể chọn “tình”, tức là bỏ mặt gia đình trong sự tra khảo dã man mà bỏ trốn, trọn đời bên chàng Kim.Nhưng Kiều đã chọn “hiếu”, Kiều đã hy sinh mối tình với chàng Kim và thậm chí là cả tấm thân trinh trắng của mình để cứu lấy gia đình.Kiều đã nói ra cái lý của mình và hy vọng em ắt sẽ thấu hiểu tâm trạng bi kịch của mình.Từ “sự đâu” như một lời oán trách số phận, ngoại cảnh đã gây “sóng gió bất kỳ” làm tan vỡ mối tình đầu sâu nặng.
Trở lại với cuộc trao duyên, sau khi kể rõ chuyện tình và nỗi đau của mình, Kiều chuyển sang phân tích ý nghĩa, gửi gắm em Vân:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
“Ngày Xuân” mang tính ước lệ, có ý tuổi trẻ của người con gái.Tuổi trẻ của em con dài và vì “tình máu mủ” giữa em và chị mà “thay lời nước non” giúp chị.Kiều kêu gọi tình chị em máu mủ ruột thịt thiêng liêng, gợi dậy ở Vân đức hy sinh và lòng vị tha vì người thân.Nếu được thỏa nguyện, thì dẫu Kiều chết đi, dưới chín suối cũng hả dạ, vì có được tiếng thơm là người có tình nghĩ.
Ở đoạn trên, du thuyết phục em bằng lý, hay bằng tình hay bằng cả hai thì vẫn là ngôn ngữ của lí trí, giọng hát đều đều, trầm trầm.Đến đây thì lời thơ như nấc thẹn.Cái “gút” tâm trạng đầu đoạn trích đã được mở ra nhưng dường như giờ lại bị “thắt” lại thể hiện qua lời nói bất bình thường.Nút “thắt” này chính là nút thắt của nội tâm Kiều.Lời lẽ ấy là lời lẽ của nội tâm Kiều bất chợt thốt ra trước sự thật cay đắng và phũ phàng: vật này (Chiếc vành, Tờ mây) là của nàng, chàng Kim là của nàng, sao bây giờ lại là của Vân?Nội tâm rối bời, giằng xé ấy thể hiện Kiều còn muốn giữ lại cho mình, cho quá khứ chôn sâu trong trái tim Kiều, không muốn trao hoàn toàn cho em, thể hiện tâm trạng day dứt, vướng víu, níu kéo của Kiều đối với những kỷ niệm tình yêu của mình với chàng Kim hay nói khác hơn là Kiều “trao mà không trao”:trao kỷ vật tình yêu cho em mà không tài nào dứt ra khỏi mối tình.Điều đó chứng tỏ:”Kiều trao duyên chứ không trao tình”.Đó là một sự thật đau đớn lòng, khiến cho bao độc giả phải cảm động.Hai câu thơ trên là tình tiết chính của cuộc trao duyên nên mang nhiều ý nghĩa biểu tượng và trữ tình rất lớn.Nguyễn Du thật tinh tế và cũng thật nhân bản trong ý thơ của mình.Chỉ với hai câu thơ mà ông đã chuyển tải đến độc giả nhiều khía cạnh tâm trạng của Kiều hay mang tính khái quát hơn là của cả những người con gái đang yêu trong xã hội phong kiến đương thời và thậm chí ở xã hội hiện đại ngày nay:”Khi đang yêu, ai lại muốn trao duyên bao giờ?
Từ nay, những kỷ vật Kiều trao lại cho em còn là vật làm tin nhắc nhở đến Kiều, để khi Vân có được hạnh phúc thì đừng quên Kiều:
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương huyền ngày xưa
Ý nghĩ của Kiều thật chua chát, tủi buồn.Nó đọng lại ở câu:”Dù em nên vợ nên chồng”.Trao duyên cho em rồi, cũng đã trao trả kỷ vật lại cho em, đã “cậy” em, ”lạy”em, biết bao nhiêu khẩn khoản, tin tưởng…ấy thế mà Kiều vẫn đặt một giả thiết, như có điều gì đó vẫn chưa ổn, chưa yên.Kiều tự thấy mình đáng thương biết bao, mình là “người mệnh bạc” để cho người khác(em vẫn) phải “xót”, phải thương hại!
Ý nghĩ về cái chết cứ trở đi trở lại, ám ảnh Kiều.Nhất là khi trao kỉ vật tình yêu cho em, Kiều cảm thấy như mình đã chết, bởi khi mất đi tình yêu, cuộc sống đối với Kiều chẳng còn ý nghĩa gì nữa.Rồi như người mất hồn, vẫn ngồi đây, mà hồn thì bay xa xăm tận “mai sau”:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Kiều đã mất hết hiện tại.Tương lai của nàng trông chờ vào lòng thương.Mai sau khi em “đốt hương”, chơi đàn – những lúc hạnh phúc thì hãy nhớ đến chị.Cái cách hình dung oan hồn bơ vơ của mình nơi mai sau thật là thê thảm:Kiều sau này chỉ là một ngọn gió vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ! . ”Lời thề” ấy của Kiều với chàng Kim đối với nàng cực kỳ quan trọng.Kiều đã”trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” với chàng Kim.Bởi thế, dù có tan tành thân xác “bồ liễu, dáng vẻ”trúc mai”, Kiều cũng quyết gặp lại trực tiếp chàng Kim để “đền nghì” cho chàng Kim.Đó là một ý thức, một tấm lòng, một tư tưởng mà không phải người con gái nào cũng có được.Sự thủy chung của Kiều vẫn được thể hiện rõ nét, đậm đà và càng sâu sắc hơn trong hoàn cảnh ngặt nghèo.Còn đối với Vân, khi “hồn Kiều quay trở về dương gian:
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan
“Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối.Lúc ấy, một người là con người cõi trần(Thúy Vân), một kẻ là hồn ma âm phủ(Thuý Kiều).em và chị sẽ “cách mặt khuất lời”, tức là sẽ không thấy được nhau và cũng không nghe được tiếng nói của nhau.Khi đó, em hãy rảy chén nước cho “người thác oan” là chị(Theo quan niệm tôn giáo cổ truyền thì nước tinh khiết có thể tẩy rửa nỗi oan khuất, làm cho oan hồn được mát mẻ siêu thoát).Qua đó chứng tỏ Kiều tuy tự nguyện hy sinh, bán mình chuộc cha, nhưng vẫn ý thức được mình bị oan uổng cho nên sau khi chết, hồn oan không tan.Trong tình cảnh ngặt nghèo như vậy, Kiều vẫn có ý thức nhận biết và đấu tranh đến cùng đối với sự bất công của xã hội phong kiến đương thời.
”Trâm” và “gương” là biểu tượng của tình duyên ngày xưa.Thế nhưng giờ “Trâm” đã “gãy” còn “gương” cũng đã vỡ “tan” cả.Hình tượng ”Trâm gãy gương tan” là hình ảnh của tình duyên tan vỡ.Kiều đã nhận của chàng Kim “muôn vàn ái ân” đến nỗi “kể làm sao xiết” mà giờ đây Kiều lại phản bội, thất hứa, làm “tơ duyên ngắn ngủi”, ”trâm gãy gương tan”.Nghẹn ngào, cay đắng, xót xa – bấy nhiêu tâm trạng đối diện với Kiều.Tuy trao duyên cho em Vân, nhờ em “thay lời nước non” với chàng Kim, Kiều vẫn thấy mình chịu muôn vàn tội lỗi nên nàng đã gửi lại “trăm nghìn cái lạy” cho “tình quân”-người đã cùng nàng trải qua bao kỷ niệm tình yêu nồng nàn, say đắm, đã cùng nàng thề nguyền trăm năm bên nhau mà cuối cùng lại bị nàng phản bội-mà vẫn cảm thấy chưa đủ.Trước đây ít phút, nàng đã “lạy” em Vân của mình để cầu xin em nối duyên với chàng.Khác hẳn với cái lạy “mang ơn”, cái “lạy” này là cái lạy tạ tội vô cùng thống thiết.Trong tình cảnh này, Kiều vẫn không thể làm gì hơn ngoài sự tạ tội.Và cái lạy đó đối với Kiều đã kết thúc mối tình đầu ngắn ngủi, đầy tiếc nuối.Câu:”Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” Kiều thốt lên sao mà thấm đượm vị chua chát, cay đắng của sự chia ly lứa đôi.Đến đây, Kiều mới thấm thía nỗi cô đơn và số phận của mình giữa cõi đời bất công:
Đoạn thơ “Trao Duyên” đúng là Kiều đã nói hết lời(“cạn lời”).Lời trao duyên như nói một lời trăn trối, vĩnh biệt.Trước lời trao duyên, tình yêu thật mặn nồng, say đắm, hạnh phúc, sau lời trao duyên mình đã trắng tay, đôi lứa chia ly, tình yêu tan vỡ.Trước khi trao duyên mình là người sống, sau khi trao duyên mình là hồn oan nơi chín suối.Bằng tài năng tuyệt vời của mình, Nguyễn Du hình dung rất rõ và thể hiện rất thành công số phận bi kịch, nội tâm rối bời, tâm trạng đau khổ, dằng dặc, cay đắng, xót xa và tuyệt vọng trong cuộc trao duyên của Kiều với việc sử dụng một cách khéo léo, tinh tế, sắc sảo từ ngữ, nhiều biện pháp nghệ thuật thích hợp, kết hợp linh động lời kể với lời tự tình, lời độc thoại, ……, làm cho đoạn”trao duyên” trở thành đoạn thơ lâm li nhất trong Truyện Kiều.Và đó cũng là lý do vì sao Truyện Kiều trở thành bất hủ!
Với những gì mà Cunghocvui đã giúp các bạn khái quát nội dung về nghị luận về đoạn trích Trao duyên trên đây, hy vọng sẽ giúp các bạn đạt kết quả cao trong học tập!