Soạn bài Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Thiên trường vãn vọng)
1. Về thế thơ, bài Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra giống với bài thơ nào đã học? Hãy nêu một số đặc điểm của thế thơ đó và chỉ rõ những đặc điểm ấy đã thể hiện ở bài thơ này như thế nào?
Trả lời:
Bài Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường cũng như bài Sông núi nước Nam đều làm theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
- Số câu: 4
- Số chữ trong mỗi câu: 7
- Hiệp vần: chữ cuối câu 1,2,4 (yên-biên-điền)
2. Cụm từ “nửa như có, nửa như không” (bán vô bán hữu) có nghĩa là gì? Hãy hình dung quang cảnh được gợi lên ở câu thơ thứ hai.
Trả lời:
Cụm từ "nửa như có nửa như không” có nghĩa là phong cảnh mờ ảo; vừa như có lại như không; vừa thực lại vừa hư. Quang cảnh trong câu thơ thứ hai hiện lên trong không khí êm đềm, tĩnh lặng. Mọi vật như chìm đần vào sương khói, cho nên, tạo nên sự mơ màng, nên thơ rất độc đáo của câu thơ.
3. Trong bài thơ, cảnh vật được miêu tả vào thời điểm nào trong ngày và gồm những chi tiết nào?
Trả lời:
Trong bài thơ, cảnh vật được miêu tả vào lúc chiều về, sắp tối, gồm những chi tiết sau:
- Ánh sáng, màu sắc: mờ mờ như khói phủ.
- Âm thanh, tiếng sáo thổi dắt trâu về.
- Cảnh vật: đàn trâu đi, từng đôi cò trắng bay dưới cánh đồng.
4. Qua các nội dung được miêu tả trong bài thơ, em có những cảm nhận gì trước cảnh tượng buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường và về tâm trạng của tác giả trước cảnh tượng đó?
Trả lời:
- Cảm nhận về cảnh: Cảnh giản đơn đạm bạc, quê mùa, bình dị.
- Tâm trạng của tác giả: Ta hình dung tác giả như đang đắm chìm mơ màng trong không gian buổi chiều tà dung dị quyến rũ ấy. Trong lòng trào dâng một tình yêu tha thiết đối với xóm làng quê hương đất nước thân thương.
5. Sau khi hiểu được giá trị của bài thơ, em có suy nghĩ gì khi nhớ rằng tác giả là một ông vua chứ không phải là một người dân quê? Từ đó, em có thể nhận xét gì thêm về thời nhà Trần trong lịch sử nước ta?
Trả lời:
Tác giả của bài thơ là một ông vua có tâm hồn thi sĩ. Đọc bài thơ, ta thấy hoàn toàn không có sự ngăn cách nào giữa một người lãnh đạo cao nhất của một quốc gia với một người nông dân thuần phác (cảnh được nhìn và miêu tả ở những nét gần gũi và dân dã nhất). Điều đó cho thấy, nhà vua rất gần dân chúng, rất yêu dân, yêu chuộng sự thanh bình. Phải chăng vì các vị vua Trần rất thân dân, yêu dân như con mà mỗi khi đứng trước hoạ xâm lăng (nhất là trong ba lần quân Nguyên – Mông xâm lược nước ta) nhà Trần đều lãnh đạo nhân dân chống xâm lược thành công.