Soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - Soạn văn lớp 9
ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
Câu 1. Em hãy tìm hiểu cảnh thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu:
- Đặc điểm không gian trước lầu Ngưng Bích.
- Thời gian qua cảm nhận của Thúy Kiều
- Qua khung cảnh thiên nhiên có thể thấy Thúy Kiều đang ở trong hoàn cảnh, tâm trạng như thế nào? Từ ngữ nào góp phần diễn tả hoàn cảnh và tâm trạng ấy?
Trả lời:
Hoàn cảnh cô đơn tội nghiệp của Kiều
Sáu câu đầu là bức tranh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích gợi II hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều.
Trước tiên là hình ảnh Kiều bị giam lỏng:
“Trước lẩu Ngưng Bích khóa xuân”
Khóa xuân là khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung. Hai chữ khóa xuân cho thấy Kiều bị giam ở lầu Ngưng Bích như cô gái cấm cung. Nàng trơ trọi giữa một khung cảnh thiên nhiên vắng lặng và heo hút, không có bóng người:
“Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia ”
"Bốn bề bát ngát xa trông” câu thơ như mở ra không gian rợn ngợp. Từ lầu cao, Kiều ngước nhìn ra dãy núi trùng điệp xa mờ và mảnh trăng gần gũi như sắp chạm đầu. Trước mắt nàng, cảnh vật bốn bề xa trông bát ngát, bên thì từng đụn cát vàng nhấp nhô như sóng lượn, bên thì những đám bụi hồng trải khắp dặm xa.
Cảnh thiên nhiên mênh mông, hoang vắng đó càng làm nổi bật thêm nỗi niềm cô đơn, buồn tủi của Kiều khiến nàng thêm "bẽ bàng” khi "mây sớm" lúc "đèn khuya” tâm trạng như bị chia xé.
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Cụm từ "mây sởm đèn khuya” từ thời gian khép kín, giam hãm con người. Khuya và sớm, đêm và ngày Kiều luôn trơ trọi chỉ biết làm bạn với mây và đèn. Có thể nói lúc này nàng rơi vào một hoàn cảnh tuyệt đối cô đơn.
Câu 2. Tám câu thơ tiếp theo nói lên nỗi nhớ thương của Kiều.
a. Trong cảnh ngộ của mình nàng đã nhớ đến ai? Nhớ ai trước, ai sau? Nhớ như thế có hợp lí không? Vì sao?
b. Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khau nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau. Em hãy phân tích nghệ thuật dùng từ ngữ, hình ảnh để làm sáng tỏ điều đó.
c. Em có nhận xét gì về tấm lòng Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng?
Trả lời
Trong xúc cảm, trước hết, Thúy Kiều nhớ đến Kim Trọng. Nàng hình dung bóng dáng người yêu với nỗi sầu tư ngóng dợi. Có lẽ hơn lúc nào hết, lúc này, Thúy Kiều thương Kim Trọng vô hạn. Trong tình thương có chút ân hận, nàng tự thấy như mình có lỗi. Để chàng Kim phải mòn mỏi “rày trông mai chờ”, Thúy Kiều xót xa, ân hận như một kẻ phụ tình:
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ "
Càng thương nhớ người yêu, càng nuối tiếc mối tình đầu không trọn vẹn, Thúy Kiều càng thấm thìa tình cảnh bơ vơ nơi đất khách quê người của mình, và càng hiểu tâm lòng sắt son của mình dối với Kim Trọng sẽ không bao giờ gột rửa cho phai được.
"Bên trời gốc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bạo giờ cho phai”
Ở bốn câu thơ còn lại, Kiều xót xa thương nhớ cha mẹ:
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giở?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.
Với cha mẹ, nồi nhớ thương của Thúy Kiều cũng xót xa, da diết. Tuy đã bán mình cứu cha và em thoát cảnh ngục tù nhưng Thúy Kiều vẫn thấy mình chưa trọn đạo làm con sớm thăm tối viếng. Nàng hình dung ra bóng song thân giờ đây già yếu đang mỏi lòng tựa cửa đón tin con và xốt xa tự hỏi giờ đây ai là người đang thay mình quạt nồng ấp lạnh. Chỉ bốn câu thơ độc thoại nội tâm, tác giả đã thể hiện một cách sinh dộng, cao đẹp và đầy xúc cảm tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều.
Trong đoạn thơ này, tặi năng tuyệt vời của đại thi hào Nguyễn Du còn thể hiện ở chỗ đã đặt tình trước hiếu khi viết về tâm trạng nhớ thương của Thuý Kiều. Ông đã để nàng nhớ người yêu trước và nhớ cha mẹ sau.
Điều này thật chuẩn xác và khách quan bởi vì đối với cha mẹ, Thuý Kiều đã bán mình chuộc cha, công ơn sinh thành ít nhiều đã có phần dền đáp.
Còn đội với Kim Trọng, Thuý Kiều vẫn tự thấy mình đã lỗi hẹn bạc tình:
“Kim lang ơi hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"
Chẳng trách chi khi một mình một bóng trước hết, nàng đã nghĩ dến chàng Kim. Đủ thấy ngòi bút của Nguyễn Du là cực kì tinh tế.
3. Tám câu thơ cuối miêu tả cảnh vật qua tâm trạng.
a. Cảnh vật ở đây là thực hay hư? Mỗi cảnh vật có nét riêng đồng thời lại có nét chung để diễn tả tâm trang Kiều. Em hãy phân tích và chứng minh điều đó.
Tám câu cuối thể hiện tâm trạng buồn lo của Thúy Kiều qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoảng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Cụm từ “buồn trông” là điệp khúc vừa tạo ra nhạc diệu du dương vùa thể hiện nỗi buồn lớp lớp trào dâng lên trong lòng Thúy Kiều. Có những nét tả thực với cửa bể, cánh buồm, nội cỏ, chân máy, màu xanh ,tiếng sóng ... nhưng đểu chứa đựng nhiều ý nghĩa ẩn dụ, gợi mở nhiều liên tưởng phán ánh nỗi lòng của Thúy Kiều, lúc này cảm thấy số phận cô đơn mong manh trong hiện tại và hãi hùng trước tương lai bão táp như bão táp đe doạ:
" Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Nàng tưởng như mình đang ở giữa biển khơi, bốn bề ầm ầm tiếng sóng. Sóng dữ gào thét cuồng nộ, tiếng dội bên tai dâng trào dội cả vào tâm hồn , vây bủa lấy nàng như dự báo bao cơn tai biến dữ dằn sắp áp xuống đầu.
LUYỆN TẬP
1. Thế nào là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình? Phân tích nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong tám câu thơ cuối.
Trả lời:
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là nghệ thuật mượn khung cảnh để gửi gắm tâm trạng. Cảnh không chỉ đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Cảnh là phương tiện miêu tả còn tâm trạng là mục đích miêu tả.
- Phân tích tám câu cuối:
+ Nhớ thương cha mẹ, quê hương, cảnh vật là:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
+ Nhớ người yêu, xót xa cho tình duyên lỡ dở, thì cảnh là:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu.
+ Buồn tủi, đau đớn cho thân mình, thì cảnh là:
Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
=> cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua con mắt tâm trạng của Kiều: cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn của Kiều man mác, mông lung đến lo sợ, kinh hoàng. Có thể nói dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du hình tượng thiên nhiên cùng một lúc đảm nhiệm hai chức năng: thể hiện ngoại cảnh và thể hiện tâm cảnh. Ở chức năng thứ hai, hình tượng thiên nhiên là phương tiện nghệ thuật đặc sắc để miêu tả nội tâm và khắc họa tính cách nhân vật.
Với sứ mệnh trở thành cuốn Để học tốt Ngữ văn 9, chúng tôi luôn cố gắng đem lại cho các bạn những bài soạn văn hay và đầy đủ nhất!
Cảm ơn các bạn đã theo dõi và ủng hộ!