(5,0 điểm) Cảm nhận của anh/chị về chất l...
Câu hỏi: (5,0 điểm) Cảm nhận của anh/chị về chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ sau:Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặcTóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo, cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàngĐất Nước có từ ngày đó…(Trích Đất nước, trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm, SGK Ngữ văn 12, tập 1, trang 114 – NXB Giáo dục, 2008)
Đáp án
- Hướng dẫn giải
Phương pháp giải:
Giải chi tiết:
GIỚI THIỆU CHUNG
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ thơ những năm chống Mĩ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điêm lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư; hấp dẫn người đọc bằng vẻ đẹp trí tuệ, trữ tình, đầy hào khí của những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến. Bài thơ “Đất Nước” trích trường ca “Mặt đường khát vọng” – tác phẩm được ra đời vào năm 1971– giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra khốc liệt - là một đoạn trích tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo ấy.
- Đất nước hiện lên trong thơ ông thật đẹp, luôn có sự hài hòa giữa con người và cảnh vật, giữa quá khứ thiêng liêng và thực tại anh hùng, giữa trách nhiệm và bổn phận với những gì con người được thụ hưởng từ Đất nước.
- Đất nước, đã từ lâu, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Được khơi nguồn từ đề tài quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có cho mình một lối đi riêng. Nguyễn Khoa Điềm từng chia sẻ: “Đất Nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh hùng nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân”. “Tôi cố gắng thể hiện hình ảnh Đất Nước giản dị, gần gũi nhất”. Rút ra từ trường ca “Mặt đường khát vọng”, đoạn trích “Đất Nước” là sự kết tinh của những sáng tạo dộc đáo, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm.
- Để trả lời cho câu hỏi “Đất nước có từ bao giờ?”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã đưa người đọc trở về với lịch sử dân tộc, tìm về với cội nguồn văn hóa dân gian từ xa xưa để lý giải cho nguồn gốc ra đời đất nước.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có từ ngày đó
Đoạn thơ 9 câu đầu trong đoạn trích “Đất nước” đậm chất văn hóa dân gian đã trả lời cho câu hỏi đó.
PHÂN TÍCH
- Khác với các nhà thơ cùng thế hệ – thường tạo một khoảng cách khá xa để chiêm ngưỡng và ngợi ca đất nước, với các từ ngữ, hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, có tính chất biểu tượng. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.
- Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta, từ lời kể chuyện của người mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục tập quán quen thuộc (tóc mẹ thì bới sau đầu) cho đến tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo ta ăn hàng ngày, cái kèo cái cột trong nhà… Tất cả những điều đó làm cho Đất nước trở thành cái gần gũi, thân thiết, bình dị trong cuộc sống hàng ngày của con người.
* Câu thơ mở đầu được nhà thơ viết theo thể câu khẳng định: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”.
- Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì “Đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng; đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác. Cho nên “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!”.
- Cách nói “Đất Nước đã có rồi” đã thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất Nước cũng như Trời và Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên đầu. Cũng như vậy, không biết Đất Nước có tự bao giờ nhưng khi ta lớn lên ta đã thấy Đất Nước của mình rồi, nó hiện diện quanh ta với những gì yêu thương nhất.
* Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả vẻ đẹp của Đất Nước trong chiều sâu văn hóa, phong tục. Những từ ngữ như Đất Nước “có trong”, Đất Nước “bắt đầu” là những từ ngữ diễn tả rất nhẹ nhàng về sự ra đời của Đất Nước:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
- Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để diễn tả về Đất Nước. Đối với trẻ thơ, Đất Nước thân thương qua lời kể “Ngày xửa ngày xưa” của bà của mẹ… Có nghĩa là Đất Nước đã có từ lâu đời. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
- Không chỉ “có trong những cái ngày xửa ngày xưa”, Nguyễn Khoa Điềm còn xác định cái buổi ban đầu ấy qua một nét sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ, người bà Việt Nam. Đó là phong tục ăn trầu: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”. Đất Nước lớn lao, kỳ vĩ sao lại chứa đựng trong một miếng trầu bé nhỏ? Hình thức câu thơ chứa đựng sự phi lí nhưng lại hoàn toàn hợp lí bởi tất cả những điều lớn lao đều bắt nguồn từ những điều bé nhỏ. Ví không có những dòng suối nhỏ sao trở thành dòng sông, ví như không có những dòng sông sao có thể trở thành biển cả. Cho nên nhắc đến “miếng trầu” chắc hẳn là nhắc đến một điều sâu thẳm. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu truyện này mà nên. Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời. Hoàng Cầm trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” cũng đã từng nhắc đến nét đặc trưng ấy:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
* Một Đất Nước không thể thiếu truyền thống mà một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
- Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước qua ý thơ “Đất Nước lớn lên…”. Chữ “lớn lên” là để chỉ sự trưởng thành của Đất Nước. Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, mới lên ba đã biết xông pha trận mạc. Đứa bé ấy đã vươn vai trở thành chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc. Từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tố Hữu cũng đã có thơ:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi
(Tố Hữu)
- Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi…
- Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc “Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ”, bởi:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
* Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
- Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, không ai khác là những người mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gợi nhớ ca dao:
Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh
- Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Hay:
Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa
- Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời. Quy luật của tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn. Quy luật trong tình cảm con người là con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu… đi vào năm tháng. Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con cái Kèo, cái Cột cũng ra đời.
- Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Câu thơ gợi nhắc bài ca dao:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
- Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Để làm ra hạt gạo ta ăn hàng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân bao đời nay.
* Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước có từ ngày đó”.
- “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
* Nhận xét chung
9 câu thơ mở đầu đoạn trích “Đất nước” thấm đẫm chất văn hóa dân gian. Khái quát lại, chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ có thể được khái quát ở một số phương diện tiêu biểu:
- Sử dụng những chi tiết, hình ảnh, nhân vật, từ ngữ... quen thuộc ở các thể loại văn học dân gian (cổ tích, thần thoại, truyền thuyết, ca dao dân ca, tục ngữ, thành ngữ...) tạo thành hệ thống chất liệu quen mà lạ, giàu ý nghĩa
- Gợi lại những phong tục, tập quán, sinh hoạt của người bình dân xưa (tục ăn trầu, búi tóc, đặt tên...), nhắc đến sự hình thành, phát triển nền văn minh nông nghiệp... để khắc sâu cội nguồn văn hóa, văn hiến dân tôc.
- Cảm hứng về lối sống ân nghĩa, thủy chung; truyền thống lao động; truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm oai hùng của dân tộc...
ĐÁNH GIÁ CHUNG
- Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.
- Bằng cảm nhận rất đỗi thân thương, gần gũi, Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh Đất Nước bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp. Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình.
Câu hỏi trên thuộc đề trắc nghiệm
Đề thi thử THPT QG môn Ngữ Văn Trường THPT Chuyên Trần Phú - Hải Phòng -Lần 2 - năm 2017 (có lời giải chi tiết)