Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đêm tình...
Câu hỏi: Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ Văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam). Từ âm thanh tiếng sáo và hình ảnh bát cháo hành (Chí Phèo – Nam Cao, Ngữ Văn 11, NXB Giáo dục Việt Nam) hãy nhận xét về vai trò của các tác nhân đối với tâm hồn con người.
Đáp án
- Hướng dẫn giải
Phương pháp giải:
_Phân tích (Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng)
_Sử dụng các thao tác lập luận (phân tích, tổng hợp, bàn luận,…) để tạo lập một văn bản nghị luận văn học.
Giải chi tiết:
Yêu cầu hình thức:
_Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng làm nghị luận văn học để tạo lập văn bản.
_Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
Giới thiệu tác giả Tô Hoài, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhân vật Mị_Tô Hoài là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Trong những sáng tác của mình, ông luôn thể hiện vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có.
_ “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc – tập truyện được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.
_Đến với tác phẩm, người đọc thật sự ấn tượng với nhân vật Mị - nhân vật chính được khắc họa đậm nét trong khung cảnh màu xuân ở Hồng Ngài.
Giới thiệu về nhân vật Mị_Chân dung, lai lịch:
+Nhan sắc: “trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị” -> nhan sắc rực rỡ ở tuổi cập kê.
+Tài năng: thổi sáo, thổi lá hay đến mức có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.
+Phẩm chất tốt đẹp: hiếu thảo, tự tin vào khả năng lao động của mình và khát khao tự do.
_Số phận bi kịch: trở thành con dâu gạt nợ
+Nguyên nhân: Do món nợ truyền kiếp của gia đình nên bị A Sử lừa bắt về làm vợ theo hủ tục của cướp vợ của người dân tộc thiểu số.
+Khi mới về làm dâu, Mị mang trong mình ý thức phán kháng nhưng sau đó quen dần và chịu đựng nỗi đau cả về thể xác lẫn tinh thần.
Hình tượng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân: Mùa xuân đã làm sống dậy sức sống tiềm tàng trong Mị* Nguyên nhân thức dậy sức sống tiềm tàng:
_ Khung cảnh ngày xuân:
+ Màu sắc rực rỡ: cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy phơi trên mỏm đá xòe rộng ra như những cánh bướm sặc sỡ.
+ Âm thanh náo nhiệt, tưng bừng: tiếng trẻ con chờ tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà …
_Tiếng sáo: có sự dịch chuyển, vận động:
+ Từ xa đến gần (Từ ngoài vào trong, từ khách thể nhập vào chủ thể):
Lấp ló ngoài đầu núi vọng lại.
Văng vẳng ở đầu làng.
Lửng lơ bay ngoài đường.
Rập rờn trong đầu Mị.
+ Từ hiện tại đến quá khứ (Từ cõi thực đến cõi mộng).
+ Tiếng sáo rủ bạn đi chơi đầy háo hức -> tiếng sáo gọi bạn yêu trong tuyệt vọng.
=> Dìu hồn Mị bềnh bồng sống lại với những khát khao yêu thương hạnh phúc của ngày xưa, dẫn Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ.
_ Hơi rượu:
+ Uống cả hũ rượu
+ Uống ực từng bát
-> Say lịm mặt ngồi đấy -> Lãng quên hiện tại -> Sống lại quá khứ.
* Diễn biến tâm lí – hành trình vượt thoát khỏi hoàn cảnh hiện tại để tìm lại chính mình:
(+) Tương tranh, mẫu thuẫn giữa sức sống tiềm tàng và thực tại hiện hữu:
_ Sức sống tiềm tàng:
+ Mị thấy “phơi phới” trở lại, “vui sướng”
+ Thức dậy ý thức và khát vọng: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.
_Thực tại hiện hữu: Mị muốn đi chơi nhưng lại không đi chơi, Mị đi vào buồng.
(+) Trong hơi rượu -> sức sống tiềm tàng lại trỗi dậy
_Mị như ở trạng thái mộng du, vượt thoát hoàn cảnh để tìm lại chính mình.
+ Lấy ống mỡ sắn một miếng để thắp đèn lên cho sáng -> thắp sáng căn buồng cũng là thắp sáng khát vọng giải thoát cuộc đời mình.
+ Chuẩn bị đi chơi: quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo.
(+) Hành động vượt thoát khỏi hoàn cảnh bị chặn đứng:
_Mị bị A Sử trói vào cột, không cho đi chơi.
-> A Sử chỉ trói được thân xác Mị chứ không trói được ý muốn đi chơi, không trói được khát vọng, sức sống của Mị.
-> Mị vẫn thả hồn theo tiếng sáo đến với những cuộc chơi.
(+) Sáng hôm sau Mị tỉnh lại, quay về thực tại, nhận ra tình thế bi đát của mình:
_Những dây trói xiết lại, đau dứt từng mảnh thịt.
-> Thấy mình không bằng con ngựa ở bên kia vách.
Ý nghĩa của âm thanh tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân:_Trong truyện ngắn của mình, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả âm thanh của tiếng sáo đêm xuân như một thứ thuốc “gọi hồn”. Nhà văn đã hơn sáu lần miêu tả các trường độ âm thanh của tiếng sáo. Có lúc “tiếng sáo gọi bạn đầu làng” văng vẳng từ xa, có khi “tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi” mỗi lúc một gần hơn, có lúc tưởng như sắp nắm bắt được thì tiếng sáo lại tuột khỏi tầm tay Mị và “lơ lửng” bay ngoài đường, có khi nó “rập rờn” trở thành sâu thẳm trong tâm hồn.
_Từng âm thanh của tiếng sáo với những cường độ và cao độ khác nhau khi trầm bổng, khi xa khi gần là tiếng đời, khi là tiếng lòng cứ không thôi thổn thức, dậy lòng trong lòng Mị.
_Tiếng sáo là biểu tượng của quá khứ tươi đẹp, là âm hưởng của “một thời xa vắng” đã bị Mị lãng quên trong những mùa đông dài đầy “giông tố” của cuộc đời. Từng tiếng sáo như rót tâm sự vào lòng Mị. Nó bồi hồi, quyến rũ, nó réo rắt mời Mị thoát khỏi hiện tại cay đắng về lại ngày xưa – cái thời “có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.
_Tiếng sáo trở than nhịp cầu nối giữa hiện tại khổ đau với quá khứ tươi đẹp, là con thuyền đưa Mị về với bến xưa dẫu chỉ là trong tâm tưởng. Cùng với cảnh sắc Hồng Ngài, khi xuân về và men rượu, tiếng sáo đã cộng hưởng, làm thức tỉnh ý niệm về sự sống, sự tồn tại trong Mị. Nhà văn Tô Hoài đã dùng các trường độ, độ cao thấp của âm thanh tiếng sáo để diễn tả các cung bậc tâm trạng, sự xáo trộn trong tâm tư Mị và giúp người đọc khám phá chiều sâu nội tâm nhân vật.
Liên hệ với chi tiết “bát cháo hành” trong truyện “Chí Phèo” – Nam Cao_Giới thiệu về tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo:
+Nam Cao là cây bút xuất sắc của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Những tác phẩm của ông thấm đẫm tư tưởng nhân đạo.
+ “Chí Phèo” là một trong số những tác phẩm đầu tay của Nam Cao vào khoảng những năm 1940 – 1941 có tên là “Cái lò gạch cũ”. Sau đó nhà xuất bản tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi” (1941). Đến khi in lại trong tập Luống cày (1946), tác giả đặt lại tên truyện là “Chí Phèo”.
_Ý nghĩa chi tiết “bát cháo hành”:
+Thể hiện sự quan tâm, chăm sóc ân cần của thị Nở khi Chí Phèo ốm đau, trơ trọi.
+Là biểu hiện của tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận, là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng. Điều đó cũng cho thấy Chí vô cùng cô đơn.
+ “Bát cháo hành” đã đánh thức tính người bị vùi lấp lâu nay ở Chí. “Bát cháo hành” gây ngạc nhiên, gây xúc động mạnh khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình, khơi dậy niềm khao khát được làm hòa với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện.
Vai trò của tác nhân đối với tâm hồn con người:_Tác nhân thường gắn bó với một sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đời nhân vật hoặc tác nhân là yếu tố quen thuộc được lặp lại trong hoàn cảnh đặc biệt.
_Tác nhân sẽ tác động mạnh mẽ lên cảm xúc, tư tưởng của nhân vật khiến nhân vật thức tỉnh hoặc nhận thức được hoàn cảnh thực tại, trỗi dậy những khao khát về hạnh phúc, khao khát sống.
_Trong truyện ngắn tác giả thường sử dụng những chi tiết hoặc hình ảnh có tính chất “tác nhân” để đặt nhân vật vào những hoàn cảnh khác nhau, khắc họa và làm nối bật tâm lý, tính cách nhân vật.
Tổng kết
Câu hỏi trên thuộc đề trắc nghiệm
Đề thi thử THPTQG môn Ngữ Văn trường THPT chuyên Biên Hòa - Hà Nam - lần 1 - năm 2018 (có lời giải chi tiết)