(4 điểm)Cảm nhận của anh/ chị về...
Câu hỏi: (4 điểm)Cảm nhận của anh/ chị về khát vọng sống của người phụ nữ qua nhân vật Mị trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" và người vợ nhặt trong truyện "Vợ nhặt" của Kim Lân.
Đáp án
- Hướng dẫn giải
Phương pháp giải:
Giải chi tiết:
1. Giới thiệu chung:
- Tô Hoài là cây đại thụ của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đạt kỉ lục về số lượng tác phẩm; phong phú, hấp dẫn về nội dung; đặc sắc về nghệ thuật. "Vợ chồng A Phủ" là một truyện ngắn xuất sắc trong đời văn Tô Hoài nói riêng và văn học hiện đại của ta nói chung.
- Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ông là một cây bút viết truyện ngắn tài hoa. Thế giới nghệ thuật của Kim Lân chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, in trong tập “Con chó xấu xí”.
- Thông qua hai tác phẩm, Tô Hoài và Kim Lân đã thể hiện những nét đặc sắc trong việc khắc họa vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ.
2. Phân tích:
2.1. Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”:
a/ Thân phận của Mị:
- Mị là một cô gái người dân tộc Mèo (H’Mông) đã kết tinh được những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ miền núi. Nhưng dưới mấy tầng áp bức khắc nghiệt tàn bạo của cường quyền, thần quyền, hủ tục phong kiến, Mị gần như tê liệt hết sức sống.
b/ Khát vọng sống của Mị:
Tô Hoài đã khám phá ra lòng ham sống, khát khao tình yêu, hạnh phúc, tự do tiềm ẩn mãnh liệt trong tâm hồn Mị. Chính sức sống này là tiền đề quan trọng giúp Mị thoát khỏi nhà ngục thống lí tìm đến Phiềng Sa được cán bộ A Châu dìu dắt để trở thành người tự do, người làm chủ cuộc đời mình, chiến đấu, giải phóng quê hương mình như một tất yếu.
* Sức sống tiềm tàng và tinh thần phản kháng của Mị trong đêm tình mùa xuân:
- Các yếu tố làm thức tỉnh ý thức và lòng ham sống ở Mị: khung cảnh ngày xuân ở Hồng Ngài, tiếng sáo gọi bạn yêu và hơi rượu nồng ngày Tết.
- Sự trỗi dậy của sức sống vốn tiềm tàng trong Mị:
+ Mị thấy phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước…
+ Mị nghĩ lại sự tù túng của mình, nghĩ đến cái chết lần thứ 2 -> Muốn giải thoát, kết thúc cuộc đời bi kịch, địa ngục trần gian.
+ Mị thức dậy ý thức và khát vọng: thấy mình còn trẻ, muốn đi chơi, thắp sáng căn phòng lên – thắp sáng khát vọng đời mình, sửa soạn đi chơi -> sự trở về của nữ tính… Mị thôi làm “con rùa…”, muốn làm con chim tung cánh trên bầu trời tự do.
+ Khát vọng bị A Sử chặn đứng, sức sống mùa xuân trong lòng Mị vẫn không hề bị trói buộc, dập tắt. Hồn Mị vẫn bay theo tiếng sáo đến với những cuộc chơi xuân.
=> Sức sống trong Mị chưa phải đã tắt hẳn, nó như đống tro tàn nhưng vẫn còn hơi ấm, chỉ cần ngọn gió thổi qua, sẽ bùng cháy lên mãnh liệt.
* Sức sống tiềm tàng và tinh thần phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt của Mị trong đêm đông cắt dây trói cho A Phủ:
- Nguyên nhân: Mị trông thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Nó khiến Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ. Mị nhớ lại kí ức đau khổ - lần mình bị trói đứng, thật đau khổ! Từ thương mình mà đồng cảm, thương cho người.
- Sự thức tỉnh ý thức:
+ Nhận ra dấu hiệu về cái chết, phán đoán “chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” -> càng thương hơn và so sánh“người kia việc gì mà phải chết thế”
+ Lần đầu tiên Mị nhìn rõ kẻ thù của mình cũng như những kiếp người đau khổ như mình: “Chúng nó thật độc ác”
+ Nghĩ đến tình huống cha con Pá Tra bảo là Mị cởi trói cho A Phủ, bắt Mị đứng trói thay đến chết trên cái cọc ấy nhưng Mị cũng không sợ -> tình thương vượt lên sự sợ hãi, lấn át cả nỗi thương thân.
- Cắt dây trói cho A Phủ -> hành động tự phát, xuất phát từ tình thương nhưng cũng chính là Mị đang cắt dây trói cho chính mình, chiến thắng cường quyền, thần quyền.
- Sau đó, Mị “hốt hoảng”, “vụt chạy” đuổi theo A Phủ, nói “A Phủ cho tôi đi!... Ở đây thì chết mất!” -> bắt đầu hành trình từ “thung lũng đau thương” đến “cánh đồng vui” ở mảnh đất Phiềng Sa.
=> Những hành động của Mị có ý nghĩa to lớn vì nó là sự hồi sinh, là biểu tượng của tinh thần phản kháng quyết liệt với cái ác, cái xấu.
* Qua việc xây dựng tình huống đặc sắc và miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật Mị, Tô Hoài đã đặt vấn đề khát vọng tự do, hạnh phúc chân chính của người phụ nữ miền núi và con đường giải phóng họ phải đi từ tự phát đến tự giác, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2.2. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”:
a/ Người vợ nhặt hiện lên như một nạn nhân tiêu biểu của nạn đói khủng khiếp năm 1945.
- Nhân vật không có tên riêng, không có lai lịch… chỉ là một thân phận bọt bèo trôi dạt giữa dòng đời.
- Cái đói đã hủy hoại cả vẻ đẹp ngoại hình và vẻ đẹp nữ tính của một người phụ nữ, khiến thị trở nên liều lĩnh, trơ trẽn đến mức sẵn sàng theo không người ta về.
b/ Song đằng sau hành động liều lĩnh đó là một khát vọng sống mãnh liệt:
- Người vợ nhặt theo Tràng về nhà không chỉ vì cái đói dồn đuổi mà còn xuất phát từ ước mơ được sống trong một gia đình ấm cúng, từ sự cảm động trước một tấm lòng hào hiệp hiếm có trong nạn đói. Vì vậy trên đường về nhà cùng Tràng thị tỏ ra e thẹn, ngượng ngập và ý tứ hơn. Khi nhìn thấy ngôi nhà lụp xụp rách nát, người phụ nữ ấy vẫn ở lại để cùng chia sẻ cuộc đời đói khổ với Tràng chứ không bỏ đi.
- Hôm sau, thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu.: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
- Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng.
- Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm".
* Đặt thị vào một tình huống đặc biệt éo le, đi sâu khai thác tâm lí nhân vật cùng với khắc họa nhân vật bằng lời nói, cử chỉ, hành động, nhà văn Kim Lân đã cho ta thấy lòng ham sống, khát vọng sống và ý thức vươn lên giành lấy sự sống vô cùng mãnh liệt của thị.
3. Điểm tương đồng và khác biệt của hai tác phẩm:
- Sự tương đồng:
+ Cùng thể hiện vẻ đẹp tâm hồn con người. Những nhân vật phụ nữ của Tô Hoài, Kim Lân được các nhà văn quan sát, miêu tả trong xu thế hiện thực, vận động đi lên nên số phận các nhân vật này đã đi từ bóng tối đến ánh sáng, “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”.
+ Cả 2 tác giả đều có tài năng xây dựng tình huống và miêu tả tâm lí nhân vật.
- Sự khác biệt: Do cái nhìn khám phá riêng biệt độc đáo của từng tác giả trước hiện thực cuộc sống nên mỗi nhân vật cũng có những biểu hiện khác nhau về số phận và vẻ đẹp tâm hồn thật đa dạng, phong phú và hấp dẫn. Mị là nạn nhân của chế độ phong kiến miền núi hà khắc mà cụ thể là cường quyền và thần quyền; vợ Tràng bị cái đói, cái chết đe doạ cướp đi sự sống. Nhưng họ không mất đi hy vọng vào tương lai và luôn luôn tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt.
4. Đánh giá:
Tô Hoài và Kim Lân xứng đáng là những cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam, đặc biệt trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật và khám phá những vẻ đẹp trong tâm hồn họ. Ở hai cây bút ấy cũng luôn dạt dào tấm lòng nhân ái, yêu thương, trân trọng con người.
Câu hỏi trên thuộc đề trắc nghiệm
Đề thi thử THPT QG môn Ngữ văn năm 2016 - Trường THPT Đông Thụy Anh - Thái Bình - lần 1