(5,0 điểm) Nhà giáo Trần Đồng Minh nhận xét về tác...
Câu hỏi: (5,0 điểm) Nhà giáo Trần Đồng Minh nhận xét về tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân:“Nhà văn dùng Vợ nhặt làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng”. (Nhà văn trong nhà trường: Kim Lân, NXB Giáo dục, 1999, tr.39)Trình bày cảm nhận của anh (chị) về “bóng tối” và “những tia sáng ấm lòng” trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.
Đáp án
- Hướng dẫn giải
Phương pháp giải:
Giải chi tiết:
Học sinh có thể trình bày nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo những ý chính dưới đây:
1/ GIỚI THIỆU CHUNG: 0,5 điểm
- Kim Lân là nhà văn viết rất ít nhưng rất thành công ở lĩnh vực truyện ngắn. Ông được coi là nhà văn “một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn” (Nguyên Hồng).
- Tiêu biểu cho sự thành công lĩnh vực truyện ngắn của ông là tác phẩm “Vợ nhặt” – in trong tập “Con chó xấu xí”. Truyện là bài ca về tình người, về lòng lạc quan và niềm khát sống mãnh liệt của những con người sống trong tận cùng của đói khổ.
2/ GIẢI THÍCH Ý KIẾN: 0,5 điểm
- "Cái đòn bẩy": đặt con người trong hoàn cảnh éo le, cái đói đe dọa đến tính mạng, con người chới trên bờ vực của sự sống và cái chết để càng thấy rõ hơn giá trị của tình yêu thương.
- "Bóng tối": Chỉ không khí ảm đạm, chết chóc của bối cảnh nạn đói năm 1945 trong tác phẩm.
- Những tia sáng ấm lòng: ánh sáng lóe lên từ tình người, từ khát vọng, niềm tin vào tương lai.
=> Nhận định đề cập tới hai gía trị lớn của tác phẩm: hiện thực và nhân đạo. Trong đó, khẳng định, nhấn mạnh giá trị nhân đạo ( những tia sáng ấm lòng – biểu hiện của tình người, sự lạc quan…)
3/ PHÂN TÍCH, CHỨNG MINH: 3,0 điểm
3.1. "Bóng tối" bao trùm câu chuyện: 1,5 điểm
- Truyện ngắn “Vợ nhặt” được viết trên nền bối cảnh nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Nhà văn Nam Cao từng nói về nạn đói ấy rằng: “có lẽ cho đến năm 2000 con cháu chúng ta cũng phải kể cho nhau nghe để rùng mình”.
- Bức tranh xóm ngụ cư ngày đói:
+ “Cái đói đã tràn đến” và “người chết như ngã rạ”, “những gia đình từ Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma” và len lỏi khắp các miền quê khiến cho những xác người “nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Người sống thì “dật dờ như những bóng ma”.
+ Cái đói ở đây được miêu tả bằng những màu sắc và âm thanh ghê rợn, đó là “màu xanh xám” của những người đói khát hay màu đen của đám quạ trên mấy cây gạo, đó là tiếng quạ gào lên “từng hồi thê thiết” đến những tiếng “hờ khóc” vẳng lại từ những nhà có người chết đói.
+ Cái đói còn hiện hình qua mùi, đó là "mùi gây của xác người” và cả “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”.
- Thân phận con người trong cảnh đói:
+ Cái đói khiến con người trở nên rẻ rúng vô cùng, thể hiện qua nhân vật chị "vợ nhặt". Hình thức thị rách rưới, tả tơi, gầy sọp, khuôn mặt xám xít, ngực gầy lép... không còn sức sống và chút nữ tính nào. Vì miếng ăn, vì muốn chạy thoát khỏi cái đói mà thị sẵn sàng theo không một người đàn ông về làm vợ. Thị đã đánh mất lòng tự trọng, trở thành kẻ trơ trẽn một cách đáng thương.
+ Tràng không có tiền để cưới vợ, bà cụ Tứ đón con dâu mới không có lấy nổi một mâm cơm cúng gia tiên. Bữa cơm đầu đón nàng dâu chỉ một lùm rau chuối thái rối với nồi cháo cám đắng chát, nghẹn bứ trong cổ họng...
+ Cái đói khiến người ta phải dè dặt, trở nên chua chát - những người dân xóm ngụ cư thi nhau bàn tán về việc Tràng có vợ "Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?"
=> Cái đói thực sự là một thảm họa khủng khiếp, nó cuốn phăng đi bao nhiêu sự sống, làm sa sút nhân cách con người. Qua đó, ta thấy được những tội ác man rợ của phát xít Nhật và sức tố cáo xã hội to lớn của tác phẩm.
3.2. "Nhưng trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng": 1,5 điểm
- Đó là tia sáng của tình yêu thương, sẻ chia, đùm bọc lẫn nhau:
+ Anh cu Tràng ngay trong cái đói vẫn rất hào phóng, mời "thị" ăn một chập bốn bát bánh đúc, mua cho thị cái thúng con, ra hàng cơm đánh một bữa no nê... ban đầu cũng "chợn" nhưng ngay lập tức "hắn tặc lưỡi một cái: Chậc, kệ!", vui vẻ với niềm vui vợ mới. Không những thế, Tràng còn hào phóng mua hai hào dầu, thắp cho căn nhà sáng sủa hơn...+
+ Bà cụ Tứ vui mừng chấp nhận người dâu mới trong sự bao dung, ân cần, thương xót: "Chúng mày đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng" "Con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân"...
- Chính tình yêu thương ấy đã làm thay đổi mỗi con người trong gia đình nhỏ và thắp lên trong họ tia sáng của niềm lạc quan và lòng ham sống mãnh liệt:
+ Anh cu Tràng trở nên gắn bó với ngôi nhà mình hơn, ấp ủ tương lai "hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy", thấy một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng, thấy cần có trách nhiệm với vợ, con sau này.
+ Chị vợ nhặt lúc trước chao chát chỏng lỏn, từ khi theo Tràng về dịu dàng, bẽn lẽn, ý tứ biết bao. Chi tiết thị gạt nhanh miếng cháo cám vào miệng, mặt điềm nhiên như không cho ta thấy thị là một người phụ nữ biết điều, ý tứ. Thị cũng xăm xắn chăm lo cho gia đình nhỏ: dọn dẹp, nhặt cỏ, giặt giũ, lấy nước... đảm đang lắm!
+ Bà cụ Tứ dẫu gần đất xa trời vẫn toàn nói những chuyện vui: chuyện nuôi gà, làm chuồng gà, luôn động viên các con "ai giàu ba họ ai khó ba đời",... Niềm vui lớn lao tràn ngập căn nhà khiến bà cụ trở nên nhanh nhẹn hơn, "cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên"...
=> Đằng sau mỗi lời nói, mỗi ý nghĩ, cử chỉ, hành động của các nhân vật đều chất chứa khát vọng sống, hướng tới ánh sáng của của một cuộc sống mới, no ấm đầy đủ hơn, tươi vui hạnh phúc hơn.
- Bữa cơm sáng hôm sau: họ nói chuyện phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Hình ảnh đám người đói và lá cờ Việt Minh bay phấp phới hiện lên trong trí óc Tràng đã dự báo một cuộc đổi đời cho họ sẽ không xa...
3.3. Nghệ thuật truyện: 0,5 điểm
- Xây dựng tình huống vừa éo le vừa bất ngờ vừa cảm động.
- Miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế, tài tình, sắc sảo.
- Ngôn ngữ giản dị, gần gũi, bút pháp tả thực được vận dụng thành công,...
4. ĐÁNH GIÁ CHUNG: 0,5 điểm
- "Vợ nhặt" là một câu chuyện có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện niềm cảm thương, sự trân trọng và niềm tin của tác giả vào con người với sức mạnh to lớn của tình yêu thương, nhân ái, bao dung.
- Tác phẩm xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc trong văn học Việt Nam hiện đại 1945-1975.
Câu hỏi trên thuộc đề trắc nghiệm
Đề thi thử THPT QG lần 1 môn Ngữ văn - Trường THPT Đa Phúc - Hà Nội - 2014.2015