Tập làm văn: Cấu tạo của bài văn tả cảnh - Soạn tiếng việt 5
Câu 1: Đọc và phân đoạn bài văn “Hoàng hôn trên sông Hương” của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Xác định nội dung từng đoạn.
Bài “Hoàng hôn trên sông Hương” được chia làm ba phần:
a) Mở bài: Từ đầu đến “thành phô vốn hằng ngày đà rất yên tĩnh này”.
Nội dung: Nêu đặc điểm của Huế vào lúc hoàng hôn.
b) Thân bài: Từ uMùa thu” đên “khoảnh khắc yên tĩnh của buổi chiều cũng chấm dứt”.
Nội dung: Sự chuyển đổi màu sắc của sông Hương cung với nhừng hoạt động của con người ở hai bên bờ và trên dòng sông Hương vào thời điểm hoàng hôn.
Phần thân bài gồm 2 đoạn:
- Đoạn 1: từ " mùa thu’ cho đến “hàng cốm”, nói về sự thay đổi sắc màu của sông Hương từ lúc bắt đầu hoàng hòn đến lúc trời tối hẳn.
- Đoạn 2: từ “Phía bên sông” cho đến "cũng chấm dứt”, nói về hoạt động của con người ở hai bờ sông và trên mặt sông từ lúc hoàng hôn đến lúc thành phố lên đèn.
c) Kết bài: Phần còn lại của văn bản.
- Nội dung: Huế thức dậy sau buổi hoàng hôn với nhịp sống mới.
Câu 2: Thứ tự miêu tả trong bài văn trên có gì giống và khác với bài “Quang cảnh làng mạc ngày mùa”.
* Giống: Cả hai bài đều giới thiệu bao quát cảnh đang tả, sau đó mới đi vào tả cụ thể từng cảnh vật nhằm minh họa cho nhận xét chung về toàn cảnh.
- Bài "Quang cảnh làng mạc ngày mùa” tả từng bộ phận của cảnh
- Bài "'Hoàng hôn trên sông Hương” tả cảnh vật theo sự biến đổi của thời gian.
Cụ thể là:
Bài "Quang cảnh làng mạc ngày mùa”, tác giả đã giới thiệu màu sắc bao trùm lên làng qụê vào ngày mùa. Đó là màu vàng, sau đó tác giả đi sâu hơn tả chi tiết cảnh vật với sắc độ màu vàng khác nhau, rồi thời tiết và con người cần cù say mê với công việc trong ngày mùa.
* Khác: Bài “Hoàng hôn trên sông Hương”, tác giả khái quát đặc điểm, chung của Huế vào lúc hoàng hôn. Đó là sự yên tĩnh. Tiếp đó, tác giả tả về sự thay đổi sắc màu của sông Hương theo sự biến chuyển của thời gian lúc bắt đầu hoàng hôn cho đến lúc trời tối hẳn. Cuối cùng là sự thức dậy của Huế sau thời điểm hoàng hôn.
II. Luyện tập
Nhận xét cấu tạo của bài văn sau:
Nắng trưa
Nắng cứ như từng dòng lửa xối xuống mặt đất.
Buổi trư ngồi trong nhà nhìn ra sân, thấy rất rõ những sợi không khí bé nhỏ, mỏng mảnh, nhẹ tênh, vòng vèo lượn từ mặt đất bốc lên, bốc lên mãi.
Tiếng gì xa vắng thế? Tiếng võng kẽo kẹt kêu buồn buồn từ nhà ai vọng lại. Thỉnh thoảng, câu ru em cất lên từng đoạn ạ ời… Hình như chị ru em. Em ngủ và chị cũng thiu thiu ngủ theo. Em chợt thức làm chị bừng tỉnh và tiếp tục câu ạ ời. Cho nên câu hát cứ cất lên từng đoạn rồi ngừng lại, rồi cất lên, rồi lại lịm đi trong cái nặng nề của hai mi mắt khép lại.
Con gà nào cất lên một tiếng gáy. Và ở góc vườn, tiếng cục tác làm nắng trưa thêm oi ả, ngột ngạt. Không một tiếng chim, không một sợi gió. Cây chuối cũng ngủ, tàu lá lặng đi như thiếp vào trong nắng. Đường làng vắng ngắt. Bóng tre, bóng duối cũng lặng im.
Ấy thế mà mẹ phải vơ vội cái nón cũ, đội lên đầu, bước vào trong nắng, ra đồng cấy nốt thửa ruộng chưa xong.
Thương mẹ biết bao nhiêu, mẹ ơi!
Theo Băng Sơn
* Cấu tạo của bài văn Nắng trưa có ba phần:
- Mở bài: (câu văn đầu): Nhận xét chung về nắng trưa.
- Thân bài: Cảnh vật trong nắng trưa. Có bốn đoạn:
+ Đoạn 1: (từ Buổi trưa trong nhà đến bốc lên mãi): Hơi đất trong nắng dữ dội.
+ Đoạn 2: (từ Tiếng gì xa vắng đến hai mi mắt khép lại): Tiếng võng tiếng hát ru em trong nắng trưa.
+ Đoạn 3: (từ Con gà nào đến bóng duổi cũng lặng im): Cây cối và con vật trong nắng trưa.
+ Đoạn 4: (từ Ấy thế mà đến cấy nốt thửa ruộng chưa xong): Hình ảnh mẹ trong nắng trưa.
- Kết bài (câu cuối - kết bài mở rộng):Tình cram của con đối với mẹ
Em có thể chọn bất kì cảnh nào gần gũi với em nhất và quan sát chúng vào một buổi nhất định (sáng, trưa, chiều). Chú ý: huy động tất cả các giác quan của mình vào quan sát cảnh ấy: thị giác, cảm giác, thính giác... Trong quá trình quan sát, em cần thực hiện theo một trình tự nhất định (Từ gần đến xa, hay từ xa đến gần; từ trên xuống dưới hay từ dưới lên trên). Quan sát được gì, ghi vào vở, sau dó liên kết chúng lại thành một dàn ý chi tiết rồi viết thành một bài văn hoàn chỉnh.